Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013
Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013
Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013
Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2013
ĐỀ CƯƠNG THAM KHẢO MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
Câu 1. Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) là tất yếu của lịch sử, là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc?GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:I. Khái quát bối cảnh lịch sử:1. Thế giới:Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh,đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông. Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Đó là cuộc cách mạng vô sản, và còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc". Cách mạng Tháng Mười đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc"Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản, nhiều đảng cộng sản trên thế giới đã được thành lập. Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.2. Trong nước:Từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa, giáo dục. Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành những mâu thuẫn đan xen nhau: mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ và nông dân, nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức.II. Sự thất bại của các phong trào yêu nước:Các phong trào yêu nước dấy lên mạnh mẽ khắp nơi: từ phong trào Cần Vương, Văn Thân đến cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Yên Thế, từ phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và rất nhiều các cuộc đấu tranh quần chúng dấy lên hết đợt này đến đợt khác nhưng tất cả đều thất bại. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự thất bại của các phong trào đó là do những nhà yêu nước cách mạng - những người đứng đầu đã không nhận thức được đúng và đầy đủ những yêu cầu cấp bách của lịch sử nước ta vào đầu thế kỷ XX, không phân tích một cách toàn diện những biến động của xã hội Việt Nam cũng như thế giới vào thời điểm bản lề của lịch sử: giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến đã hết vai trò và đã quá lỗi thời, còn giai cấp tư sản với hệ tư tưởng tư sản cũng đang tỏ ra sự yếu ớt, bất lực, không đủ năng lực để tập hợp toàn thể dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ách áp bức nô dịch của chủ nghĩa thực dân, không biết gắn phong trào yêu nước của dân tộc mình với cuộc đấu tranh của các dân tộc khác có cùng chung cảnh ngộ bị áp bức, bóc lột và nô dịch. Con đường của Hoàng Hoa Thám, vì tư tưởng phong kiến lỗi thời của nó, không thể dẫn tới thắng lợi. Con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu thì chẳng khác gì việc “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Còn con đường của Phan Chu Trinh chẳng qua chỉ là sự “xin giặc rủ lòng thương”.Tình hình đó dẫn đến một xu thế tất yếu của lịch sử là: phải có một đường lối mới để cách mạng Việt Nam đi theo. Đó là đườn lối Cách mạng theo khuynh hướng vô sản đang trở thành trào lưu.III. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng:Ngày 16 và 17/7/1920, báo L'Humanité (Nhân đạo) đăng bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Đọc bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ về con đường đấu tranh giải phóng cho dân tộc mình.
Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí của mình sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa (tháng 10/1920) và sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đến Liên Xô, hoạt động cho Quốc tế Cộng sản, cụ thể là ở Ban Phương Đông và Quốc tế Nông dân.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc). Đến Trung Quốc, quốc gia giáp biên với Việt Nam là mong muốn thiết tha từ lâu của Người. Tại đây, Người có điều kiện thuận lợi hơn để liên lạc với cách mạng Việt Nam, đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước và chuẩn bị cho ra đời một chính đảng.
Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở châu Á. Đây là tổ chức đoàn kết các dân tộc thuộc địa ở châu Á để cùng nhau đứng lên đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập dân tộc.
Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đây được xem là tổ chức tiền thân của Đảng, có tính chất quá độ, phù hợp với trình độ phát triển của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Qua tổ chức này, những người Việt Nam yêu nước, dù xuất thân từ thành phần nào cũng rất dễ dàng hiểu và tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin.
Đi đôi với công tác phát triển tổ chức, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị về tư tưởng và chính trị để thành lập một chính đảng ở Việt Nam sau này. Cụ thể, Người trực tiếp mở và phụ trách Trường huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ, gieo những hạt giống cộng sản đầu tiên cho cách mạng Việt Nam.
Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên cho xuất bản tờ báo Thanh Niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Mục đích để truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về nước, giác ngộ quần chúng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng vô sản, đẩy lùi những tư tưởng dân tộc chủ nghĩa tư bản và tiểu tư sản đang tồn tại ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ đã được in thành tác phẩm Đường kách mệnh. Tác phẩm Đường kách mệnh đã chỉ ra rất rõ con đường giải phóng dân tộc, phương pháp đấu tranh cách mạng, xứng đáng là ngọn cờ chỉ đạo cách mạng Việt Nam trong những ngày đầu chuẩn bị thành lập Đảng.
Tháng 9/1928, kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kỳ đưa ra chủ trương "Vô sản hoá", nhằm đưa hội viên vào các nhà máy, đồn điền, hầm mỏ để đẩy mạnh việc truyền bá và kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với các phong trào đấu tranh của công nhân. Với không khí dâng lên cao mạnh mẽ của phong trào đấu tranh cách mạng, chỉ trong vòng 7 tháng (từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930), cả nước lần lượt đã ra đời ba tổ chức cộng sản. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 1/1930). Lúc này, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước vừa là yêu cầu tất yếu khách quan, vừa là chỉ thị của Quốc tế Cộng sản. Trước tình hình cấp bách đó, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm (Thái Lan) trở lại Hương Cảng (Hồng Kông) triệu tập ngay hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất các tổ chức đó lại và thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất. Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, tại Hương Cảng, sau một thời gian ngắn gấp rút chuẩn bị, với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một tổ chức duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng và Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tất cả các tài liệu này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Nội dung Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ đường lối chiến lược và sách lược phù hợp với tình hình thực tế của cách mạng Việt Nam, đó là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn liền với vai trò vĩ đại của lãnh tụ Nguyễn Ái QuốcSự vận dụng sáng tạo thể hiện ở chỗ:Thứ nhất, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là sản phầm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Học thuyết Mác - Lênin khẳng định rằng, Đảng công sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được đồng chí Nguyễn ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đông. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Thứ hai, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự phát triền cao và thống nhất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thứ ba, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, là sự đồng tâm nhất trí của những chiến sĩ tiên phong. Thứ tư, đường lối chiến lược và sách lược cách mạng của Đảng được thể hiện trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là phù hợp với yêu cầu của toàn Đảng và toàn dân. Thực tiễn cách mạng nước ta ngày càng khẳng định sự đúng đắn và sáng tạo của những tư tưởng chiến lược và sách lược trên đây của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lân thứ VII của Đảng đã khẳng định: "lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động" của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong giai đoạn hiện nay.IV. Liên hệ thực tiễn:Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài. Nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng (khóa XI) nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ....” .Tình hình trên đây có nguyên nhân: Thứ nhất là khách quan: (1) Thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường. (2) Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. (3) Các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng. Thứ hai là chủ quan: (1)Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. (2) Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát. (3) Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên.4. Để tạo chuyển biến mạnh mẽ về công tác xây dựng Đảng trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện tốt 8 nhiệm vụ trong công tác xây dựng Đảng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra, coi đó là những nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa lâu dài và phải thực hiện thường xuyên, có hiệu quả, đồng thời tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn đề cấp bách sau đây:Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.Ba là, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.Trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định đã có về xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện tốt các nhóm giải pháp sau đây: 1. Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên; 2. Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng; 3 .Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách; 4 – Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Ca6u 2 : Vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc
1939-1945 và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám -
1945?
CHỦ ĐỀ:
Đảng
lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền cách mạng.
TRỌNG
TÂM: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong cao trào 1939-1945 và Tổng
khởi nghĩa CMT8 1945.
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Hoàn cảnh lịch sử những năm
1939-1940
- Cuộc Chiến tranh
thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng: ngày 1
– 9 – 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan. Hai ngày sau, Anh,
Pháp tuyên chiến với Đức. Tháng 6/1940, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng,
chính phủ phản động Pê tanh lên cầm quyền. Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô,
tính chất chiến tranh thay đổi. Ở Châu Á – Thái Bình Dương, Nhật mở rộng xâm
lược Trung Quốc, tiến sát biên giới Việt – Trung. Tháng 9/1940, Nhật vào Đông
Dương.
- Ở Đông
Dương, thế lực phản động thuộc địa ngóc đầu dậy, thủ tiêu các quyền tự do, dân
chủ; thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Khi Nhật vào Đông Dương, Pháp đầu
hàng Nhật và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đông Dương, làm
cho nhân dân Đông Dương phải chịu hai tầng áp bức.
Mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai phát
triển vô cùng gay gắt. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết.
II. Vai trò lãnh đạo của Đảng:
1. Chuẩn bị đường lối cách mạng
(các chủ trương của Đảng)
a) Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 11/1939: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân
tộc lên hàng đầu; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất
của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng; thay
khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công – nông – binh bằng khẩu hiệu lập chính
quyền dân chủ cộng hòa. Phương pháp đấu tranh: chuyển từ đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền đế
quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất
hợp pháp. Thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm tập hợp mọi lực lượng dân tộc
chống đế quốc.
b) Hội nghị lần thứ 7 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11/1940): khẳng định chủ trương nêu cao nhiệm
vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu ruộng đất của Hội nghị lần 6 là đúng
đắn. Hội nghị chủ trương thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng
hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ
sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm
trung tâm.
c) Hội nghị lần thứ 8 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì:
+ Giải quyết mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh là nhiệm vụ “bức thiết nhất”; tiếp
tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ thực hiện khẩu hiệu giảm tô,
giảm tức, chia lại ruộng công.
+ Quyết định
thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng. Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) là mặt trận đoàn kết dân tộc Việt Nam, không phân biệt
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo tín ngưỡng.
+ Đề ra chủ
trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của
toàn Đảng toàn dân; chỉ rõ một cuộc tổng khởi nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải
có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra đũng thời cơ; đi từ khởi
nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa.
2. Chuẩn bị lực lượng cách mạng :
Trên cơ sở lực
lượng cách mạng được nuôi dưỡng từ trước, bước vào giai đoạn trực tiếp vận động
cứu nước 1939 – 1945, việc chuẩn bị lực lượng mọi mặt được đẩy mạnh.
a. Chuẩn bị lực lượng chính trị
+ Gắn
liền với quá trình xây dựng và phát triển của Việt Minh (bao gồm các đoàn
thể quần chúng mang tên “cứu quốc”). Chương trình của Việt Minh đáp ứng nguyện
vọng cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh ngày càng phát
triển mạnh.
+ Cao Bằng
là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các hội “Cứu
quốc” trong mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942 khắp các châu ở Cao Bằng đều
có Hội cứu quốc trong đó có 3 châu “hoàn toàn” (Hoà An, Hà Quảng và Nguyên
Bình). Trên cơ sở đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm
thời Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập.
+ Bắc Sơn – Võ
Nhai cũng là một trung tâm chuẩn bị khởi nghĩa. Sự ra đời và hoạt động của lực
lượng vũ trang Bắc Sơn làm cho các tổ chức cứu quốc được xây dựng rộng khắp.
+ Tháng 2
– 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông
Anh, Phúc Yên), vạch ra kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ
trang. Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị, các đoàn thể Việt Minh, hội
Cứu quốc được xây dựng và củng cố.
+ Năm 1943
bản Đề cương văn hoá Việt Nam ra đời. Năm 1944, Đảng dân
chủ Việt Nam và Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam được thành lập,
đứng trong hàng ngũ Việt Minh.
+ Ngoài ra, Đảng
cũng chú trọng công tác vận động binh lính người Việt trong
quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít.
+ Báo
chí của Đảng và của mặt trận Việt Minh đã góp phần vào việc
tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu
tranh.
Lực lượng chính
trị quần chúng là lực lượng đông đảo nhất, một lực lượng cơ bản, giữ vai trò
quyết định trong tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Việt Minh là nơi tổ chức,
giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị, đồng thời tạo điều kiện để xây dựng
lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
b. Chuẩn bị lực lượng vũ
trang
+ Cùng với
quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, Đảng từng bước chỉ đạo xây
dựng lực lượng vũ trang.
+ Sau cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn (11 – 1940), lực lượng vũ trang Bắc Sơn được duy trì để làm vốn
quân sự cho cách mạng. Bước sang năm 1941 những đội du kích ở khu căn cứ Bắc
Sơn – Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất thành Trung đội cứu quốc quân I
(14/2/1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ
tháng 7/1941 đến tháng 2/1942). Ngày 15/9/1941, Trung đội cứu quốc quân II ra
đời.
+
Ở Cao Bằng, trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển mạnh, các đội
tự vệ cứu quốc ra đời. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị thành lập đội tự
vệ gồm 12 chiến sĩ, làm các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên
lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc. Người biên soạn nhiều tài liệu để huấn luyện
cán bộ quân sự như Cách đánh du kích, Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh
nghiệm du kích Tàu…
+ Ngày 22
– 12 – 1944, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái
Quốc, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, lúc
đầu có 34 chiến sĩ, do Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Ba ngày sau, đội đánh thắng hai
trận liên tiếp ở Phai Khắt và Nà Ngần.
+ Tháng 4
– 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì quyết định
thống nhất lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây
dựng 7 chiến khu trong cả nước.
+ Ngày 15 – 5
– 1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được
thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
+ Lực lượng bán vũ
trang cũng được xây dựng rộng khắp, ở cả nông thôn và thành thị, gồm các đội du
kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu.
Lực lượng vũ trang
tuy còn ít về số lượng, thiếu thốn về trang bị, non yếu về trình độ tác chiến,
nhưng có vai trò rất quan trọng trong hoạt động vũ trang tuyên truyền, góp phần
phát triển lực lượng chính trị; tiến công quân sự ở một số nơi gây thanh thế
cho cách mạng, đồng thời là lực lượng xung kích, lực lượng nòng cốt, hỗ trợ quần
chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đến.
Cả lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang đều là cơ sở của bạo lực cách mạng, là điều
kiện để kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong tổng khởi
nghĩa toàn dân, đập tan chính quyền của đế quốc và tay sai, thiết lập chính
quyền cách mạng.
c. Xây dựng căn cứ địa
+ Để tiến
hành khởi nghĩa phải xây dựng căn cứ địa. Đó là nơi giải quyết vấn đề tiềm lực
của cách mạng.
+ Năm 1940, sau
cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Vùng Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng thành một trung
tâm căn cứ địa, gắn liền với sự ra đơì và hoạt động của lực lượng vũ trang Bắc
Sơn.
+ Năm 1941
Nguyển Ái Quốc về nước, trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chọn Cao
Bằng làm nơi đầu tiên để xây dựng căn cứ địa. Từ đó, căn cứ địa cách mạng ngày
càng mở rộng, phát triển thành căn cứ Cao – Bắc – Lạng.
+ Năm 1943,
Uỷ ban Việt Minh Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban “xung phong
Nam tiến” để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
+ Trong những vùng
căn cứ cách mạng diễn ra các hoạt động sản xuất, xây dựng,
chiến đấu, hoạt động của các đoàn thể cứu quốc và lực
lượng vũ trang. Ngày 16 – 4 – 1945, Tổng bộ Việt Minh ra
chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng các cấp.
+ Tháng 5
– 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Tuyên Quang. Người chọn
Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo cách mạng.
+ Tháng 6
– 1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập, thực hiện
10 chính sách lớn của Việt Minh. Đó là căn cứ địa chung của cách mạng cả nước,
là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong tương lai. Tân Trào là thủ đô
Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng được thành lập.
+ Công cuộc chuẩn
bị lực lượng được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng đón chờ
thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.
Chuẩn bị thời cơ cách mạng và nghệ
thuật chớp thời cơ
Chủ tịch Hồ Chí
Minh, ngay từ những năm đầu thập niên 1920 đã sớm đưa ra những quan điểm về
thời cơ cách mạng ở Đông Dương đang đến gần. Người viết: “Đằng sau sự phục
tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục đang gào thét và
sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú phải thúc đẩy cho
thời cơ đến mau”.
Năm 1939, chiến
tranh thế giới nổ ra và lan rộng, rồi năm 1940 phát xít Đức tấn công Pháp. Ở
Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, hai đế quốc Nhật – Pháp tranh nhau
miếng mồi Đông Dương. Tháng 5/1941, trong Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ tám tại Pắc Pó (Cao Bằng) đã dự báo một cách chính xác về
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó. Đảng ta, với sự phân tích
chính xác, khoa học mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, đã dự báo cuộc đảo chính
của Nhật ở Đông Dương và vạch ra những kế hoạch, hành động khi tình hình thay
đổi. Trong bài báo đầu tiên dự báo về cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương “Bóc
trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù chung!”
của Tổng Bí thư Trường Chinh, đăng trên Báo Cờ Giải phóng, số 3 ngày
15/02/1944, sau khi phân tích mâu thuẩn ngày càng tăng trong hàng ngũ kẻ thù,
tác giả đã đi tới một nhận định sẽ xảy ra xung đột giữa Pháp và Nhật. Từ đó,
trong suốt năm 1944 và những tháng đầu năm 1945, trên những tờ báo, trong những
văn kiện chính thức của Đảng ta, vấn đề “cuộc đảo chính của phát xít Nhật” luôn
luôn được nhắc tới nhằm hướng công tác chuẩn bị của Đảng và phong trài cách
mạng của quần chúng chủ động đón nhận nó. Vì thế, khi cuộc đảo chính của Nhật
nổ ra vào đêm 09/3/1945, Đảng ta đã chủ động vạch ra những nhiệm vụ chiến lược
sát, đúng để đưa cách mạng tiếp tục tiến lên. Ngay trong đêm Nhật – Pháp bắn nhau,
từ chập tối, Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường
Chinh, đã khai mạc và ra ngay Chỉ thị “Nhật
– Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12/3/1945.
Sau khi Hồng quân
Liên Xô tiêu diệt hơn một triệu quân Quan Đông của Nhật vào Đông Bắc Trung
Quốc, ngày 11/8 Chính phủ Nhật gửi thông điệp cho các cường quốc trong phe Đồng
minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Trưa ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của Nhật Bản. Được tin
Nhật đầu hàng, thời cơ có một không hai đến với dân tộc chúng ta đã xuất hiện,
Bác Hồ đã chỉ thị: “Lúc này, thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phảo đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!”.
Ngày 13/8, Hội
nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định tổng khởi nghĩa; ngày 16/8.
Quốc dân đại hội họp ở Tân Trào tán thành chủ trương khởi nghĩa của Đảng.
Cả dân tộc nhất tề
đứng lên khởi nghĩa, chỉ trong chưa đầy nửa tháng các địa phương trong cả nước
đã giành thắng lợi.
Cao trào kháng Nhật cứu nước:
+ Từ khi Nhật
vào Đông Dương (9 – 1940), Nhật và Pháp hoà hoãn với nhau, nhưng đó chỉ là
sự hoà hoãn tạm thời, vì hai tên đế quốc không thể chung một xứ thuộc địa.
+ Đầu năm 1945,
Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Hồng quân
Liên Xô giải phóng các nước Đông Âu và tiến vào nước Đức. Ở mặt trận
châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng minh phản công, giáng cho phát xít Nhật
những đòn nặng nề. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm Đông
Dương. Sự kiện đó tạo nên một cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương. Sau
khi đảo chính thành công, Nhật thi hành một loạt biện pháp nhằm củng cố
quyền thống trị của chúng ở Đông Dương.
+ Ngày 9/3/1945,
Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Từ Sơn (Bắc
Ninh) để đánh giá tình hình và đề ra chủ trương mới. Ngày 12/3/1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của
chúng ta, xác định phát xít Nhật là kẻ thù chính; thay khẩu hiệu “Đánh đuổi
Pháp – Nhật” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; chủ trương “phát động
một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”,
đồng thời sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.
+ Ở vùng rừng
núi và trung du Bắc Kì, chiến tranh du kích phát triển mạnh. Tại Cao – Bắc
– Lạng, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực
lượng chính trị giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã.
+ Ở Bắc Kì,
Trung Kì, trước thực tế nạn đói diễn ra trầm trọng do chính sách
cướp bóc của Pháp – Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn
đói”. Phong trào thu hút hàng triệu người tham gia. Có nơi quần chúng đã giành
được chính quyền.
+ Làn sóng khởi
nghĩa từng phần dâng lên ở nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần
chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh), Bần Yên Nhân (Hưng Yên)…
+ Ở các thành
phố, nhất là Hà Nội, Huế, Sài Gòn, hoạt động vũ trang truyên
truyền, diệt ác trừ gian được đẩy mạnh, tạo điều kiện phát triển các đoàn thẻ
cứu quốc và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.
+ Ở Quảng
Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo
quần chúng khởi nghĩa (3-1945), thành lập chính quyền cách mạng,
tổ chức đội du kích Ba Tơ và xây dựng căn cứ Ba Tơ.
+ Tù chính
trị trong các nhà tù đế quốc đã đấu tranh đòi tự do hoặc
nổi dậy phá trại giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động.
+ Ở Nam Kì,
phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất ở Mĩ Tho
và Hậu Giang.
+ Báo
chí cách mạng đều ra công khai và gây ảnh hưởng chính trị vang dội.
5.. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945
+ Sau khi phát
xít Đức bị tiêu diệt, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh
tan đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Mĩ ném 2 quả bom nguyên
tử xuống các thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản. Ngày 9 – 8 – 1945,
Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo
Tuyên bố Pốtxđam. Ngày 14 – 8 – 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các
Nhật Bản thông qua quyết định đầu hàng. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu
hàng Đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần
Trọng Kim hoang mang, lo sợ đến cực điểm. Điều kiện khách quan thuận lợi cho
Tổng khởi nghĩa đã đến. Thời cơ cách mạng xuất hiện.
+ Tuy nhiên, một
nguy cơ mới đang dần đến. Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh
chuẩn bị vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Những thế lực phản động
trong nước cũng đang tìm cách thay thầy đổi chủ. Chính vì thế, vấn đề giành
chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh mà
nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ.
- Đảng kịp thời
phát động khởi nghĩa:
+ Ngày 13/8/1945,
Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Uỷ ban khởi
nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban
bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả
nước.
+ Từ ngày 14
đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào,
thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.
+ Tiếp đó,
từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán
thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách
của Việt minh, cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ
tịch.
- Từ ngày 14
– 8 – 1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng căn cứ vào
tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”, một số cấp bộ Đảng và Việt Minh đã phát động tổng khởi
nghĩa và giành được thắng lợi.
- Chiều 16/8/1945,
theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị của Đội Việt
Nam Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng thị xã
Thái Nguyên.
- Ngày 18/8/1945,
nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính
quyền ở tỉnh lị sớm nhất trong cả nước.
- Tại Hà Nội,
ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân đánh chiếm cơ quan đầu não
của địch như Phủ Khâm sai, trại Bảo an binh, Tòa Thị chính.
Tối 19/8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
- Ngày 23/8, hàng
vạn nhân dân Huế biểu tình thị uy, chiếm công sở. Chính quyền
về tay nhân dân.
- Ngày 25/8, tổng
khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn.
- Khởi nghĩa thắng
lợi ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã
tác động đến các địa phương trong nước, quần chúng các tỉnh còn lại
nối tiếp nhau khởi nghĩa. Hà Tiên và Đồng Nai Thượng là những
nơi giành chính quyền muộn nhất (28/8).
- Chiều 30/8 vua
Bảo Địa thoái vị, triều đình phong kiến nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ.
- Ngày 25/8/1945,
Chủ tich Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Uỷ ban
Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.
- Ngày 28/8/1945,
Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng Hòa.
- Ngày 2/9/1945,
tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ lâm thời đọc “Tuyên ngôn độc lập”, trịnh trọng tuyên
bố với toàn thể quốc dân và cả thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà thành lập.
IV.
Liên hệ thực tiễn về thời cơ cách mạng ngày nay:
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông - Nam Á vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.
Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Nhìn chung, những tình hình và xu hướng nêu trên sẽ tạo ra cả những thời cơ và thách thức đan xen đối với sự phát triển của đất nước trong 5 năm tới.
Ca6u 3 :
Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thử thách để bảo
vệ thành quả Cách mạng tháng Tám như thế nào (9/1945-12/1946)?
CHỦ ĐỀ:
Đảng
lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.
TRỌNG
TÂM: Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo đất nước vượt
qua khó khăn, thử thách để bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Khó khăn thử thách
của CMVN sau CMT8:- Giặc ngoại xâm và nội phản:
+ Quân đội các nước đế quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản, lũ lượt kéo vào Việt Nam.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc. Theo sau Trung Hoa Dân quốc là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) với âm mưu xúc tiến thành lập một chính phủ bù nhìn.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều kiện cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
+ Ngoài ra còn quân Nhật đang chờ để giải giáp. Một bộ phận theo lệnh đế quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang cách mạng, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng chiếm đóng Nam Bộ.
Chưa bao gờ trên đất nước Việt Nam lại có nhiều loại kẻ thù đế quốc cùng xuất hiện một lúc như vậy.
- Về chính trị:
+ Chính quyền cách mạng còn non trẻ, chưa được củng cố. Đảng và nhân dân Việt Nam chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền.
+ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cách mạng Việt Nam ở trong tình thế bị bao vây, cô lập.
- Về kinh tế:
+ Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo đó là hạn hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được.
+ Ngân sách Nhà nước hầu như trống rỗng, Chính quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn.
- Về văn hoá, xã hội:
+ Tàn dư văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số bị mù chữ.
+ Các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành.
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng trước tình thế hiểm nghèo. Vận mệnh dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”.
II. Chủ trương biện pháp của Đảng (Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính)
1. Xây dựng chính quyền cách mạng
- Ngày 6/1/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước. Hơn 90% cử tri đã đi bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội có ý nghĩa to lớn, thể hiện ý chí và quyết tâm của nhân dân Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, độc lập; giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế quốc và tay sai, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho nhà nước cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kì mới.
- Sau cuộc bầu cử Quốc hội, tại các địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, thành lập ủy ban hành chính các cấp.
- Ngày 2/3/1946, Quốc hội Khoá I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên đầu tiên, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua.
- Quân đội quốc gia Việt Nam ra đời (5/1946). Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố và phát triển. Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân được thành lập.
- Ý nghĩa: bộ máy chính quyền nhà nước được kiện toàn, trở thành công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
2. Giải quyết nạn đói và khó khăn về tài chính
* Giải quyết nạn đói
- Biện pháp trước mắt: quyên góp, điều hoà thóc gạo, đồng bào cả nước hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương Người: Tổ chức hũ gạo cứu đói, tổ chức “ngày đồng tâm” để lấy gạo cứu đói, không dùng lương thực để nấu rượu.
- Biện pháp lâu dài: toàn dân thi đua hăng hái tham gia sản xuất. bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác, giảm tô 25%, chia lại ruộng đất công một cách công bằng.
- Nhờ có những biện pháp tích cực nói trên, chỉ sau một thời gian ngắn nạn đói bị đẩy lùi, đời sống nhân dân nhất là nông dân được cải thiện, sản xuất nông nghiệp cả nước nhanh chóng được phục hồi. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào chính quyền cách mạng.
* Giải quyết những khó khăn về tài chính
- Biện pháp trước mắt: Chính phủ phát động quyên góp, thực hiện “Tuần lễ vàng”, xây dựng “Quỹ độc lập”. Kết quả chỉ sau một thời gian ngắn nhân dân cả nước đã góp được 370 kg vàng và 20 triệu đồng vào Quỹ độc lập, 40 triệu cho Quỹ đảm phụ quốc phòng.
- Biện pháp lâu dài: Ngày 23/11/1946, tại kì họp thứ 2 của Quốc hội quyết định lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước. Nhưng khó khăn về tài chính từng bước được đẩy lùi.
3. Về văn hoá – xã hội
- Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, cơ quan chuyên trách việc chống “giặc dốt”. Người kêu gọi toàn dân đi học. Chỉ sau 1 năm trên toàn quốc đã tổ chức gần 76.000 lớp học và có trên 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
- Các trường phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo công dân, cán bộ có năng lực phụng sự Tổ quốc. Nội dung và phương pháp giáo dục đổi mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
- Việc bài trừ các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan được quần chúng nhân dân hưởng ứng sôi nổi; kết hợp với xây dựng nếp sống văn hoá mới.
- Ý nghĩa: Góp phần nâng cao trình độ hiểu biết của nhân dân, xây dựng đời sống mới.
3. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng
a. Kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ
- Ngày 23/9/1945, được sự giúp sức của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh úp trụ sở Uỷ ban Nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai.
- Ngay khi thực dân Pháp trở lại xâm lược, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn cùng nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Lực lượng vũ trang đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, phá kho tàng, triệt phá nguồn tiếp tế, dựng chướng ngại vật trên đường phố, bao vây và tấn công quân Pháp trong thành phố.
- Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhân dân cả nước hướng về “Thành đồng tổ quốc”, đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp muốn mở rộng chiến tranh ra cả nước. Các đoàn quân “Nam tiến” sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
b. Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc
- Đảng và Chính phủ chủ trương hoà hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc, tránh cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.
- Biện pháp:
+ Chấp nhận một số yêu sách về kinh tế, tài chính của quân đội Trung Hoa Dân quốc như: cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông, chấp nhận lưu hành tiền quan kim và quốc tệ trên thị trường Việt Nam.
+ Đồng ý nhường cho Việt Quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội và 4 ghế trong Chính phủ liên hiệp mà không qua bầu cử. Mặt khác, chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng đã kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của các thế lực phản động. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật.
+ Đảng rút vào hoạt động bí mật với danh nghĩa “tự giải tán” (11/11/1945), để tránh mũi nhọn tiến công của kẻ thù.
- Ý nghĩa: Những biện pháp trên đã hạn chế các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng; tạo điều kiện củng cố chính quyền, tập trung kháng chiến chống Pháp ở miền Nam.
c. Hoà hoãn với Pháp
- Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước Việt Nam.
- Ở Trung Quốc, lực lượng cách mạng phát triển mạnh, nên Trung Hoa Dân quốc cần rút quân ở Đông Dương về để đối phó. Các thế lực đế quốc do Mĩ cầm đầu vừa muốn tiêu diệt cách mạng Trung Quốc, lại vừa muốn chống cách mạng Việt Nam.
- Các thế lực đế quốc đã thu xếp công việc nội bộ, kết quả là Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân quốc kí Hiệp ước Hoa – Pháp (tháng 2/1946), thoả thuận việc quân Pháp ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
- Hiệp ước trên đặt nhân dân Việt Nam trước sự lựa chọn: hoặc phải đánh hai kẻ thù (cả Pháp và Trung Hoa dân quốc); hoặc là hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp.
Để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chọn giải Pháp “Hoà để tiến”. Vào thời điểm đó, Pháp cũng cần hoà với Việt Nam để có thể đưa quân ra miền Bắc một cách dễ dàng và kéo dài thời gian chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
- Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kí với G. Xanhtơni, đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do , có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương, thuộc khối Liên hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật và rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi xung đột ở miền Nam đi đến cuộc đàm phán chính thức.
+ Việt Nam và Pháp tiếp tục đàm phán ở Hội nghị trù bị Đà Lạt (4 – 1946) và Hội nghị Phôngtennơblô (7 – 1946), nhưng không thu được kết quả gì.
+ Ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh kí với chính phủ Pháp bản Tạm ước, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hoá.
- Ý nghĩa:
+ Loại bỏ bớt kẻ thù, tránh được tình thế bất lợi phải chiến đấu với nhiều kẻ thù một lúc.
+ Tạo thêm thời gian hoà bình để củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
+ Tỏ rõ thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam.
III. Liên hệ thực tiễn về thách thức của CM nước ta hiện nay
Nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.
Câu 4 :
Đường lối
kháng chiến chống Pháp và sự lãnh đạo của Đảng ta nhằm
đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ (1946-1954)?
CHỦ ĐỀ:
Đảng
lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng, giải phóng dân tộc và thống
nhất đất nước.
TRỌNG
TÂM: Đường lối kháng chiến chống Pháp và sự lãnh đạo của Đảng ta nhằm đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Âm mưu và hành động của Pháp:
Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3 và Tạm ước ngày 14/9/1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công. Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng. Tháng 12 – 1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Khu phố Yên Ninh)...Ngày 18/12/1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày 20/12/1946.
2. So sánh lực lượng:
Nước ta vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến
mới được giải phóng, đất không rộng, người không đông, nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, lại bị chiến tranh thế giới thứ 2 tàn phá, chủ nghĩa đế quốc bao vây tứ
phía, quân đội còn non trẻ, vũ khí thô sơ, cũ kỹ, lại chưa được sự công nhận của
các nước khác. Còn Pháp là một nước đế quốc có nền kinh tế công nghiệp phát triển,
có quân đội chính quy, vũ khí trang bị hiện đại, quân số đông (đóng sẵn trên nước
ta là 100.000 quân), có kinh nghiệm xâm lược thuộc địa, lại được đế quốc Mỹ và
Anh chống lung.
II. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
1. Cơ sở hình thành:
a. Cơ sở
thực tiễn:
- Trước tình hình đó, từ ngày 13 đến ngày
22/12/1946 Ban thường vụ trung ương Đảng ta đã họp tại Vạn Phúc, Hà Đông dưới sự
chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị cho
rằng khả năng hoà hoãn không còn. Hoà hoãn nữa sẽ dẫn đến hoạ mất nước, nhân
dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ. Do đó, hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát
động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân
Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được
phát đi. Vào lúc 20h ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã
đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
b. Cơ sở
lý luận:
- Ngay sau cách mạng tháng Tám, trong chỉ thị
"Kháng chiến kiến quốc" Đảng ta đã khẳng định kẻ thù chính của dân tộc
ta là thực dân Pháp xâm lược. Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ,
trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự
với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam.
- Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947).
2. Nội dung đường lối:
+ Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến:
1. Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
2. Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ thù.
3. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
§ Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
§ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó:
Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước”.
Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
§ Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
§ Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc tế.
§ Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
III. Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối:
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại 2 cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Đầu năm 1951, trước tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại biểu lần thứ II tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra Nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi đến thắng lợi. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội của Đảng lao động Việt Nam đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Trên đà thắng lợi, cùng với đường lối cách mạng được thể hiện trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, quân và dân ta đã làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ long trời lở đất khiến Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán. Hiệp định Giơnevơ 1954 kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc chống thực dân Pháp.
- Ngày 19/10/1946 thường vụ trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định "không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp". Hội nghị đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ ra ngày 5/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
- Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 3 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (20/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng (22/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí Trường Chinh (9/1947).
2. Nội dung đường lối:
+ Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến:
1. Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
2. Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ thù.
3. Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.
+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
§ Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm nòng cốt… "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
§ Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó:
Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước”.
Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
§ Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian để củng cố, xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
§ Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động xây dựng và phát triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc tế.
§ Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
III. Quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện đường lối:
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại 2 cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Đầu năm 1951, trước tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử đó đã đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương đã họp đại hội đại biểu lần thứ II tại Chiêm Hoá - Tuyên Quang. Đại hội đã nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày và ra Nghị quyết tách Đảng cộng sản Đông Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của ba dân tộc đi đến thắng lợi. ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng lao động Việt Nam. Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày tại Đại hội của Đảng lao động Việt Nam đã kế thừa và phát triển đường lối cách mạng trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng thành đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Trên đà thắng lợi, cùng với đường lối cách mạng được thể hiện trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, quân và dân ta đã làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ long trời lở đất khiến Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán. Hiệp định Giơnevơ 1954 kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc chống thực dân Pháp.
IV. Liên
hệ thực tiễn:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (Cương lĩnh 1991) được bổ sung và phát triển năm 2011 ở Đại hội XI của Đảng thông qua xác định: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.”
Quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là thể hiện sự nhận thức quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc trong thời kỳ lịch sử mới; quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quy luật đó được thể hiện ở hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Trong bối cảnh toàn cầu hóa và còn tồn tại các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, còn có sự phân cực, chênh lệch giữa các nước phát triển và đang phát triển thì hai mặt hợp tác và đấu tranh là hai mặt luôn tồn tại song song. Những điều đó đặt ra nhiều vấn đề mà mỗi quốc gia, dân tộc phải đặc biệt quan tâm vấn đề quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong hoạch định chiến lược phát triển của mình.
Đối với nước ta các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "Diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội. Hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với Việt Nam là sự tiếp tục âm mưu chiến lược cơ bản của chúng hòng tiêu diệt chủ nghĩa xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới, lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ an ninh quốc gia không chỉ an ninh chính trị mà còn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội.
Vì thế, điều quyết định cho sự bền vững của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi lẽ, sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội sẽ bảo đảm cho sự phát triển bền vững của mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đồng thời là nền tảng của quốc phòng - an ninh. Trong thời kỳ mới, cần nhận thức một cách toàn diện và thấu đáo về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh. Mục tiêu của sự kết hợp ấy là khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tổng hợp của quốc gia và chế độ nhằm bảo đảm cho kinh tế - xã hội phát triển ổn định, nhanh và bền vững; xây dựng quốc phòng, an ninh vững chắc; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Sự kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược không chỉ trong nhận thức mà cả trong hành động, trong mỗi nhiệm vụ, lĩnh vực, khu vực và địa bàn chiến lược nhất định mà xác định trong mọi chủ thể, ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Câu 5 :
Quá
trình hình thành, phát triển, hoàn chỉnh đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của Đảng ta nhằm đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới của
đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam (1954-1975)?
CHỦ ĐỀ:
Đảng
lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng, giải phóng dân tộc và thống
nhất đất nước
TRỌNG
TÂM: Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. I. Tình hình cách mạng Miền Nam sau tháng 7/1954.
Âm mưu, kế hoạch và hành động của Đế quốc Mỹ và tay sai
-
-
Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa 2 phe xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Xuất hiện
sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung
Quốc.
-
Đất nước ta bị chia làm 2 miền: kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Miền Nam
trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự
hùng mạnh, âm mưu bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng.Đế
quốc Mỹ trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Từ đầu năm 1965,
để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ đã ào ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam,
tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn. Đồng thời dùng không quân
và hải quân hùng hổ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Trước
tình hình đó, Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên
phạm vi toàn quốc.
Một Đảng lãnh đạo
2 cuộc cách mạng khác nhau, ở 2 miền đất nước có chế độ chính trị khác nhau là
đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm và
các thuận lợi, khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng phân tích, hoạch định đường
lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước trong giai đoạn mới.
b. II. Đường lối Cách mạng Miền Nam.
Yêu cầu bức thiết
đặt ra cho Đảng sau tháng 7/1954 là phải vạch ra được đường lối đúng đắn, vừa
phù hợp với tình hình mỗi miền, tình hình cả nước, vừa phù hợp với xu thế chung
của thời đại.
1. Tháng 9/1954,
Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của
Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong lúc cách
mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa
bình; nước nhà tạm chia làm 2 miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân
tán chuyển đến tập trung.
2.Sau nghị quyết
của Bộ Chính trị, xứ ủy Nam Bộ được thành lập tháng 10-1954 do đồng chí Lê Duẩn
làm Bí thư. Tháng 6-1956, đồng chí Lê Duẩn đã dự thảo bản Đề cương cách mạng
Việt Nam ở Miền Nam.
3. Tháng 12/1957,
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 khóa II đã
xác định đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng: “Mục tiêu và
nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: củng cố miền Bắc,
đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh để
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp
hòa bình”.
4.Tháng 1/1959,
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 khóa II họp bàn về cách mạng miền Nam. Sau nhiều
lần họp và thảo luận, Ban chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách mạng
miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: “Hiện nay cách mạng Việt Nam do Đảng ta
lãnh đạo bao gồm 2 nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó
tuy có tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng
chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận
lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của
đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”. “Con đường phát triển cơ bản
của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ
quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của
nhân dân”. “Tuy vậy, cần thấy rằng cách mạng ở miền Nam vẫn có khả năng hòa
bình phát triển, tức là khả năng dần dần cải biến tình thế, dần dần thay đổi
cục diện chính trị ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Khả năng đó hiện nay rất
ít, song Đảng ta không gạt bỏ khả năng đó, mà cần ra sức tranh thủ khả năng đó”.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở
đường cho cách mạng miền Nam đi lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
- Những năm 1957 – 1959, Mĩ và tay sai tăng cường dùng bạo lực khủng bố phong trào đấu tranh của quần chúng. Tháng 5/1959, chính quyền Sài Gòn ra Luật 10 – 59, đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật, làm cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng nề. Sự đàn áp của kẻ thù làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam với đế quốc Mĩ và tay sai càng phát triển gay gắt. Cuộc đấu tranh ở miền Nam đòi hỏi phải có một biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng tiến lên.
- Tại Bến Tre, ngày 17/1/1960, “Đồng khởi” nổ ra ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre), sau đó nhanh chóng lan nhanh toàn tỉnh Bến Tre, phá vỡ từng mảng lớn chính quyền của địch.
- Đồng khởi nhanh chóng lan ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung Bộ.
- Đến năm 1960, nhân dân miền Nam đã làm chủ nhiều thôn, xã ở Nam Bộ, ven biển Trung Bộ và Tây Nguyên. - “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước ngoặt của cách mạng miền Nam, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên làm chiến tranh cách mạng.
6. Thắng lợi của “Đồng khởi” dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960), giương cao ngọn cờ đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân miền Nam, đấu tranh chống Mỹ và tay sai, nhằm thực hiện một miền Nam Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.
7.Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết,
chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung
cho cách mạng cả nước, được điều chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.
Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ
ngày 5 – 10/9/1960. Đại hội đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ
thể là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình,
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ, giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo
vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
- 8.
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, các hội nghị của Bộ Chính trị đầu năm 1961
và đầu năm 1962 đã nêu chủ trương kết hợp khởi nghĩa vũ trang của quần chúng
với chiến tranh cách mạng, giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị đồng thời
phát triển đấu tranh vũ trang nhanh lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính
trị.
9. Tháng 10-1961, Trung ương cục Miền Nam
được thành lập để trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền Nam, đẩy mạnh xây dựng lực
lượng cả quân sự lẫn chính trị trên cả 3 vùng chiến lược. Thực hiện kết hợp đấu
tranh quân sự với đấu tranh chính trị song song, đẩy mạnh đánh địch bằng 3 mũi
giáp công (quân sự, chính trị, binh vận). Vận dụng phương châm đấu tranh phù
hợp với đặc điểm từng vùng chiến lược (rừng núi, đồng bằng, thành thị).
Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) ngoài việc xác định đúng đắn quan điểm quốc tế,
hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ, hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị,
đấu tranh vũ trang đi đôi, cả hai đều có vai trò quyết định cơ bản đồng thời nhấn
mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang.
Trước hành động gây “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, hội nghị Trung ương lần thứ 11 (25-3/1965) khóa
III nêu rõ: “Ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng của cả nước giành
thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn
bị sẵn sang đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch
gây ra”.
Hội nghị lần thứ 12
khóa III(12/1965) đã nhận định: “Mỹ đưa quân vào miền Nam, nhưng lực lượng so
sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Vì thế, cuộc kháng chiến vẫn giữ
vững và phát triển thế chiến lược tiến công”.
Kết hợp với thắng
lợi về quân sự và chính trị, ngày 28-1-1967, hội nghị lần thứ 13 khóa III đã
quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, phát
huy sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.
Phát huy thắng lợi
của 2 cuộc phản công chiến lược, nghị quyết hội nghị lần thứ 14 khóa III :”Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích
và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước”.
-
Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ 18 khóa III đề ra nhiệm vụ trước mắt là: đẩy
mạnh cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt, vừa tấn công, vừa xây dựng lực
lượng, giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định.
Tháng 6-1970, Bộ
chính trị ra Nghị quyết nêu rõ: “huy động sức mạnh cả nước tiến hành tiến công
và phản công đánh Mỹ và tay sai trên toàn Đông Dương.
Thang 7-1973, Hội
nghị 21 khóa III đã ra Nghị quyết khẳng định: “Con đường cách mạng miền Nam là
con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững
thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa
cách mạng miền Nam tiến lên”
Sau một thời gian
chuẩn bị, từ ngày 30-9-1974, Bộ chính trị họp bàn chủ trương giải phóng miền
Nam. Tại Hội nghị này bộ chính trị đã phê chuẩn chủ trương kế hoạch hai năm và
kế hoạch tác chiến năm 1975. Từ ngày 8-12-1974 đến 8-1-1975, Bộ chính trị tiếp
tục họp. Kết thúc hội nghị, Bộ chính trị chỉ rõ: “nắm vững thời cơ lịch sử, mở
nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ..”
(trình bày xen kẽ các hội nghị, nghị quyết xem
SGK trang 93 trở về sau)
IV.
Liên hệ thực tiễn, bài học kinh nghiệm và ý nghĩa:
1. Nguyên nhân thắng lợi- Có sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo; với tư tưởng chiến lược tiến công, phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết hợp đấu tranh quân sự – chính trị – ngoại giao.
- Nhân dân giàu lòng yêu nước, đoàn kết nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất.
- Có hậu phương miền Bắc, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.
- Có sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau của ba dân tộc ở Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân Mĩ.
2. Ý nghĩa lịch sử
- Kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống Mĩ, cứu nước và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất Tổ quốc.
- Mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc – kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc thế giới.
- “Mãi mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Câu 6 :
Quá
trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và vai trò của
miền Bắc xã hội chủ nghĩa đối với thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975)?
CHỦ ĐỀ:
Đảng
lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
TRỌNG
TÂM:
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do vậy, điểm xuất phát của miền Bắc rất thấp (nông nghiệp: làm ăn cá thể, nhỏ bé, manh mún, kỹ thuật lạc hậu; công nghiệp mất cân đối,..). Trình độ dân trí thấp, cán bộ có trình độ Đại học và trung học chuyên nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, cán bộ quản lý năng lực cong hạn chế...Tình hình xã hội miền Bắc phức tạp (Các thế lực thù địch, chống phá, dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào công giáo di cư vào Nam...)
Miền Bắc đi lên CNXH trong điều kiện quốc tế thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn phức tạp. VIệt nâm nhận được sự giúp đỡ từ các nước Liên Xô, Trung Quốc, giúp đào tạo cán bộ, giúp về vật tư, thiết bị máy móc để xây dựng các công trình, giúp đỡ vốn ban đầu, đưa chuyên gia các lĩnh vực sang giúp Việt Nam, giúp về cơ chế, cách thức quản lý.. Tuy nhiên, bản than các nước đó cũng đang ở trong quá trình tìm tòi, khảo nghiệm mô hình, giải pháp cách thức đi lên CNXH cho phù hợp, nhiều vấn đề về CNXH và con đường đi lên CNXH chưa sáng tỏ. Miền Bắc đi lên CNXH cũng không tránh khỏi những tiêu cự của vấp váp sai lầm của các nước.
II. Đường lối CMXHCN ở Miền Bắc:
Đường lối CMXHCN ở miền Bắc được Đại hội III của Đảng đề ra với nội dung: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước và truyền thống phấn đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước XHCN anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở ĐNA và thế giới”.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Đại hội đã nêu lên những biện pháp cơ bản: “Sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng XHCN về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước XHCN có công nghiệp và nông nghiệphiện đại, vân hóa và khoa học tiên tiến”. Công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội thông qua kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) với nhiệm vụ: “lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, thực hiện một bước công nghiệp hóa XHCN, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH, đồng thời hoàn thành cải tạo XHCN, làm cho nền kinh tế miền Bắc nước ta trở thành một nền kinh tế XHCN”.
III. Vai trò của miền Bắc XHCN
(chép trang 137 đến trang 140: Trong 21 năm xây dựng........., xứng đáng là pháo đài vô địch của CNXH)
Hoặc tham khảo bài viết dưới đây:
Khi bàn về chiến tranh cách mạng, Lênin có một luận điểm nổi
tiếng: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một hậu phương
tổ chức vững chắc”. Hậu phương và tiền tuyến có mối quan hệ vô cùng mật thiết.
Hậu phương mạnh thì tiền tuyến mạnh. Tiền tuyến đánh thắng sẽ bảo vệ được hậu
phương, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để hậu phương cũng cố và xây dựng.
Ngược lại, việc xây dựng hậu phương vững mạnh có tác dụng quyết định đến thắng
lợi ở tiền tuyến. Nhận
thức rõ điều này, nên ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến, Đảng ta đã
quan tâm xây dựng Miền Bắc vững mạnh trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính
trị, văn hoá, quân sự; kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, giữa nhu
cầu thời bình với nhu cầu thời chiến; vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất, vừa sẵn
sàng chiến đấu đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, bảo vệ
Miền Bắc và chi viện sức người, sức của cho Miền Nam đánh Mỹ. Vai trò của Miền
Bắc xã hội chủ nghĩa được thể hiện:
Hai là, Miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn là
hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho đại thắng Mùa Xuân 1975 giành
thắng lợi. Xây dựng Miền Bắc thành hậu phương lớn cho Miền Nam luôn là một nhân
tố cơ bản quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, mà đỉnh cao là
đại thắng Mùa Xuân 1975.. Thực
hiện quyết tâm của Bộ Chính trị quyết giải phóng Miền Nam trong năm 1975, với
khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả để chiến thắng”; với phương châm:
“thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, Miền Bắc đã tập trung nỗ lực cao nhất
để chi viện cho Miền Nam một khối lượng vật chất khổng lồ, gồm: 154.271 tấn vật
chất sinh hoạt, 93.540 tấn xăng dầu, 103.455 tấn vũ khí, đã đưa các quân đoàn
chủ lực và gần 20 lữ đoàn, trung đoàn xe tăng, pháo binh, pháo cao xạ vào Miền
Nam.
Hậu phương lớn miền Bắc đã động viên một nguồn nhân lực trên 3 triệu người phục
vụ chiến tranh (chiếm trên 12% số dân miền Bắc), trong đó gia nhập quân đội
trên 1,5 triệu người. Ở miền Bắc có tới trên 70% số hộ gia đình có người thân
chiến đấu trên các chiến trường; trên đồng ruộng, phụ nữ chiếm trên 63% trong số
lao động trực tiếp, để nam giới đi đánh giặc, cứu nước. Ngoài nhân lực, hậu
phương lớn miền Bắc đã chi viện cho miền Nam trên 700.000 tấn vật chất, trong
đó có trên 180.000 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật...
Ba là,
bản thân miền Bắc cũng trực tiếp làm nên thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nhận rõ vai trò hậu phương lớn miền Bắc với
cách mạng cả nước nói chung, miền Nam nói riêng, đế quốc Mỹ đã tìm đủ mọi âm
mưu, thủ đoạn để ngăn chặn tối đa sự phát triển lớn mạnh của miền Bắc, coi đó
là một mục tiêu chiến lược quan trọng của cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam,
hòng phá hoại tận gốc ý chí quyết tâm của nhân dân ta, huỷ diệt tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, quân sự, hòng bóp nghẹt miền Bắc, cô lập nước ta, cô lập miền Nam
và các khả năng duy trì chiến tranh lâu dài của ta... Từ năm 1965 đến khi giải
phóng hoàn toàn miền Nam, miền Bắc phải đương đầu và đánh thắng hai lần chiến
tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Chúng tập trung đánh
phá giao thông vận tải, dùng mọi loại vũ khí hiện đại, bằng mọi biện pháp kỹ
thuật thâm độc, nhằm cắt đứt tuyến vận tải chi viện miền Nam, phong toả các bến
cảng tiếp nhận vận chuyển chi viện của quốc tế.. . Bảo đảm giao thông vận tải
trở thành nhiệm vụ trung tâm, đột xuất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Chỉ tính riêng ngành Giao thông Vận tải những năm địch đánh phá ác liệt nhất
(cao điểm là năm 1968) đã có trong biên chế chính thức trên 120.000 người, đó
là chưa kể hàng chục vạn thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến được huy động
tham gia đảm bảo giao thông trên mọi nẻo đường từ hậu phương ra tiền tuyến.
Bốn là, Miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn là
chiếc cầu nối giữa cách mạng nước ta và cách mạng thế giới, từ đó hoàn thành
vai trò quốc tế trong sáng của mình. Thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ không chỉ là thắng lợi của quá trình phát
triển chiến tranh cách mạng của dân tộc ta mà còn là biểu hiện của sức mạnh
đoàn kết chiến đấu giữa 3 nước Đông Dương, sự giúp đỡ to lớn về vật chất và
tinh thần của các nước xã hội chủ nghĩa và những lực lượng yêu chuộng hoà bình
trên thế giới. Trong đó, Miền Bắc xã hội chủ nghĩa luôn xứng đáng với vai trò
là chiếc cầu nối giữa cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Thông qua vai
trò to lớn của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc, chúng ta đã nhận
được sự giúp đỡ to lớn về mọi mặt của Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba và các nước
trong phe xã hội chủ nghĩa. Khẩu hiệu “Vì Việt Nam, Cu Ba sẵn sàng hiến dâng cả
máu” không chỉ là phong trào sôi nổi ở riêng Cu Ba, mà còn là phong trào hành
động của nhiều nước trên thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ. Có thể thấy,
chưa bao giờ trong lịch sử thế giới, cuộc đấu tranh của dân tộc ta lại được cả
loài người ủng hộ mạnh mẽ đến thế. Không chỉ có Liên Xô, Trung Quốc, Cu Ba và
các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ ta, mà ngay cả các nước tư bản, các nước có
xu hướng chính trị khác nhau cũng đều lên tiếng ủng hộ ta. Chính sự ủng hộ to
lớn đó, đã được Miền Bắc tiếp nhận, phát huy và đã trở thành sức mạnh nội lực
to lớn để quân và dân ta làm nên đại thắng Mùa Xuân 1975 lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu.
Những vấn đề chủ yếu được trình bày trên đây phần nào đã nói
lên vai trò của hậu phương lớn miền Bắc XHCN trong cuộc kháng chiến chung Mỹ, cứu
nước. Những năm đó, miền Bắc vừa là căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cả
nước, vừa là hậu phương lớn của cách mạng miền Nam, vừa là tiền tuyến trực tiếp
chiến đấu ác liệt với máy bay và tàu chiến địch. Đúng như sự khẳng định của Đại
hội đại biểu toàn quốc lấn thứ IV của Đảng: “Không thể nào có thắng lợi của sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nếu không có miền Bắc XHCN, suốt 16 năm
qua luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược... Miền Bắc đã dốc
vào chiến tranh giữ nước và cứu nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN và đã làm
tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước”.
IV. Liên hệ với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của CM ngày nay:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (Cương lĩnh 1991) được bổ sung và phát triển năm 2011 ở Đại hội XI của Đảng thông qua xác định: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.”
Bài học xây dựng và phát huy sức mạnh của hậu phương trong chiến tranh nói chung, hậu phương lớn miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói riêng cần được kế thừa và phát triển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong thời kỳ mới. Chiến tranh BVTQ (nếu xảy ra) sẽ là cuộc chiến tranh địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, kết hợp tiến công hoả lực từ xa với tiến công đường bộ, đường biển; phối hợp lực lượng phản động bên trong với lực lượng xâm lược từ ngoài, được tiến hành trong thời gian ngắn, không gian mở rộng... Sự thay đổi phương thức tác chiến của đối tượng tác chiến, đặt ra cho nhiệm vụ xây dựng nền QPTD nói chung, xây dựng hậu phương nói riêng những yêu cầu và nội dung mới. Khái niệm hậu phương trong chiến tranh BVTQ ngày nay không chỉ là vùng lãnh thổ nằm ngoài vùng chiến sự như trước đây, mà phải được xây dựng trên các địa bàn chiến lược.
Đất nước ta sau 30 năm độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng CNXH với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, chúng ta thường xuyên chăm lo củng cố quốc phòng, BVTQ. Đảng ta xác định: sức mạnh BVTQ ngày nay là sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, không ngừng xây dựng thế trận QPTD, gắn với thế trận an ninh nhân dân, phù hợp với hoàn cảnh mới. Đây là cơ sở, nền tảng để xây đựng nền QPTD, xây dựng căn cứ địa, hậu phương vững mạnh, phục vụ cho phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng- an ninh trong thời bình và sẵn sàng huy động phục vụ cho nhu cầu chiến tranh BVTQ. Tuy nhiên, xây dựng hậu phương bảo đảm cho chiến tranh BVTQ phải được kết hợp giữa hậu phương quốc gia với hậu phương tại chỗ trên từng địa bàn, địa phương mà hạt nhân là các căn cứ hậu phương, căn cứ hậu cần của khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và phải được tiến hành từ trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội gắn với củng cố quốc phòng- an ninh trên cả nước. Đó cũng là quá trình xây dựng hậu cần nhân dân, hậu cần địa phương và hậu cần quân đội trên phạm vi cả nước và trên từng dịa bàn, địa phương theo ý định chiến lược BVTQ, tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn của hậu phương- nhân tố thường xuyên có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi tình huống.
Câu 7 :
Quá
trình tìm tòi, khảo nghiệm, khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện đất nước và
sự bổ sung, phát triển đường lối đó của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới (từ
1986 đến nay) là đáp ứng đòi hỏi tất yếu khách quan của xã hội Việt Nam, phù hợp với
quy luật vận động, phát triển của thời đại?
CHỦ ĐỀ:
Đảng
lãnh đạo CMXHCN trên phạm vi cả nước
TRỌNG
TÂM:
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
I. Ba bước đột
phá quan trọng trong thời kỳ trước đổi mới
Để đi đến đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI,
Đảng ta, qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã trải
qua nhiều bước tìm tòi và thử nghiệm.
Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, Đại
hội IV của Đảng họp tháng 12-1976 đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong cả nước mà nội dung cơ bản là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách
mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và
văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Nhưng trong quá
trình tổ chức thực hiện, chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan, nóng vội, tính sai
bước đi. Trong phát triển lực lượng sản xuất, đã không tập trung phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà quá thiên về công nghiệp nặng, ham làm nhanh,
làm nhiều. Về quan hệ sản xuất, đã chủ trương cải tạo ồ ạt, muốn nhanh chóng
xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân để xác lập một cách phổ biến các hình
thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với tư liệu sản xuất ngay cả khi lực lượng
sản xuất còn rất thấp kém. Về quản lý, đã chọn mô hình kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, phủ nhận kinh tế thị trường, xem nhẹ năng suất, chất lượng và hiệu
quả.
Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là
những nguyên nhân về tổ chức và quản lý kinh tế, vào những năm cuối thập niên
70 thế kỷ XX, đất nước dần dần lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi
khủng hoảng. Muốn vậy, phải thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ và cách làm, tìm tòi và
thử nghiệm cách làm ăn mới cho những vấn đề đặt ra.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8-1979), với chủ trương
bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”, là
bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm đó. Hội
nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán
cho Nhà nước hoặc trao đổi tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng
đất hoang hoá; đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức; sửa lại thuế
lương thực và giá lương thực để khuyến khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối
theo định suất, định lượng,... Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 nhanh chóng
được nhân dân cả nước đón nhận và biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn
nền kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, trong cả nước xuất hiện rất nhiều điển
hình về cách làm ăn mới. Long An từ giữa năm 1980 đã thí điểm mô hình “mua cao,
bán cao”, “bù giá vào lương” thay cho cơ chế “mua cung, bán cấp”. Hải Phòng,
Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh thí điểm hình thức khoán. Từ thực tế các thí điểm đó, ngày
13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp. Tiếp đó, trong công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của các cơ
sở trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp theo các
Quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ. Nghị quyết Trung ương 6, Chỉ
thị 100 của Ban Bí thư và các Quyết định 25/CP và 26/CP của Chính phủ cho thấy
những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện,
nhưng đó là bước đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới
sau này.
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) phát triển
thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh
tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Để góp phần khắc phục
tư tưởng nóng vội, Đại hội đưa ra khái niệm về “chặng đường trước mắt” của thời
kỳ quá độ và xác định trong chặng đường này, nội dung chính của công nghiệp hoá
xã hội chủ nghĩa là “coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp,
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu hợp lý”. Đại
hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong một thời gian nhất
định ở miền Nam.
Tuy nhiên sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12-1983)
lại cho rằng sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những
nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế, xã hội, từ đó, chủ trương để ổn
định tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải
nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực và các nông hải sản
quan trọng, thống nhất quản lý giá...
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) là bước đột phá thứ hai với chủ trương
dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một
giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Tháng
9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền được bắt đầu bằng việc đổi
tiền, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều
chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp;
lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986, lại phải lùi một bước, quay
trở lại thực hiện chính sách hai giá...
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-1986) là bước đột phá thứ ba với
kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế. Nội dung là: 1- Về cơ cấu
kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ, phát triển có chọn lọc công nghiệp nặng; 2- Về cải tạo
xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới, phải xác định cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta; 3- Về cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời
phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung,
bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ
chế một giá.
Kết luận của Bộ Chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc
định hướng soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội VI của Đảng.
II. Đại hội VI, bước ngoặt cơ bản và quyết định
của đổi mới
Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và
có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với
việc đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến
đổi mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo của Đảng; từ đổi mới kinh tế đến
đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đại hội
khẳng định: Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Trong đánh giá tình hình, Đại hội đề ra phương châm “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”; từ đó không chỉ
khẳng định những thành tựu đạt được mà còn thẳng thắn vạch ra sai lầm trong bố
trí cơ cấu kinh tế, trong phân phối lưu thông, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa
và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế. Đại hội kết luận rằng: “những sai lầm
nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách
lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Và “Những sai lầm đó
bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác
cán bộ Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân...”.
Đại hội nêu lên bốn bài học kinh nghiệm lớn: Trong toàn
bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan; phải biết kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới; phải xây dựng Đảng
ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục tư tưởng về phân kỳ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đại hội VI xác định chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ, xem ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây
dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường tiếp theo là nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát những năm
còn lại của chặng đường đầu tiên này.
Sau Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị
tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, làm cho
Nghị quyết Đại hội VI đi vào cuộc sống.
Nét nổi bật nhất của tình hình là từ cuối năm 1988, công
cuộc cải tổ và cải cách ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ngày
càng chao đảo, việc thực hiện đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập đã dẫn
đến sự phủ nhận sạch trơn quá khứ cách mạng, chĩa mũi nhọn công kích vào Đảng
Cộng sản và chủ nghĩa Mác - Lênin, gieo rắc những tư tưởng hoài nghi, bi quan,
dao động với chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá VI
(3-1989), cùng với tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đổi mới, đã nêu lên sáu
nguyên tắc của đổi mới, trong đó nguyên tắc đầu tiên là: Đổi mới không phải
là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện
có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình
thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Sự khẳng định sáu nguyên tắc của đổi mới đã góp phần ngăn
chặn có hiệu quả khuynh hướng đổi mới cực đoan, muốn phát triển kinh tế với bất
kỳ giá nào, không cần quan tâm đến định hướng chính trị của sự phát triển đó.
III. Quá trinh
bổ sung phát triển đường lối đổi mới từ Đại hội VII đến nay:
Cương lĩnh chính trị năm 1991 và quá trình 15 năm thực
hiện qua các nhiệm kỳ Đại hội VII, VIII và IX
Đại hội VII của Đảng (6-1991) là một bước phát triển đặc
biệt quan trọng của quá trình đổi mới, với việc thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ những
bài học kinh nghiệm của quá trình 60 năm Đảng ta lãnh đạo cách mạng, trên cơ sở
khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
Cương lĩnh đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng và những phương hướng cơ bản để phấn đấu đạt tới xã hội đó.
Cương lĩnh khẳng định Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; khẳng định xây dựng Nhà nước
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trong đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh
tế quốc dân; khẳng định xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là một phương hướng chiến lược lớn. Về chính sách đối ngoại, Cương lĩnh chủ
trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế
độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hoà
bình.
Sự khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh (cùng với chủ nghĩa
Mác - Lênin) là nền tảng tư tưởng của Đảng có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và
thực tiễn đối với toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam.
Sự phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội thời kỳ
sau Đại hội VII được thể hiện đậm nét ở Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khoá VII (1-1994). Hội nghị xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi
mới nói riêng và của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung là
phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Hội
nghị còn chỉ ra những nguy cơ mà công cuộc đổi mới đất nước phải vượt qua là:
tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới; tệ tham nhũng và
quan liêu; “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Đại hội VIII
của Đảng (6-1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp
theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2020; xem đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt; làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tiếp tục coi phát triển giáo dục -
đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đại hội IX của
Đảng (4-2001) là đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam, vừa đưa ra cái
nhìn tổng quát về thế kỷ XX với những thành tựu rực rỡ mà cách mạng nước ta và
dân tộc ta đã giành được trong thế kỷ này, vừa khẳng định triển vọng của thế kỷ
XXI, xác định mục tiêu chung của nước ta trong giai đoạn hiện nay là “độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001-2010 nhằm phấn đấu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển vào năm
Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, Đại hội nêu lên ba nội dung có tính chất đột phá: 1- Đánh giá sâu sắc
hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn vị trí, vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh, coi “tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam...”, khẳng định “tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta”; 2- Khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; 3- Coi việc “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là một nhân
tố rất cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội”, theo đó, “động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập
thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế
của toàn xã hội”.
5. Cột mốc Đại
hội X với việc tổng kết 20 năm đổi mới và đề ra quyết sách đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển trước năm 2010
Đại hội X của Đảng (4-2006) là đại hội lần thứ năm của
thời kỳ đổi mới, một mốc son đánh dấu chặng đường phát triển rạng rỡ của 20 năm
đổi mới và 15 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn của 20 năm
đổi mới (1986-2005), Đảng ta chỉ rõ:
“Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đạt những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính
trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị -
xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất
nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt
đẹp”4.
Đại hội X còn khẳng định:
“Những thành tựu đó chứng tỏ đường
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những
nét cơ bản”5.
Để minh chứng, Đại hội đã khẳng định lại có sự bổ sung và
phát triển một số nội dung trong Cương lĩnh trên cả hai mặt: đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng và những phương hướng để đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cụ thể như sau:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng
là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp
bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới”6.
Và: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế”7.
Đại hội X kết luận: “Qua tổng kết lý luận - thực tiễn 20
năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại
hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh,
làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Với chủ đề Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, Đại hội X đã nêu lên
nhiều quyết sách có tính chiến lược để thực hiện vượt mức Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, tức là đưa nước ta vượt qua cái
ngưỡng nước đang phát triển có thu nhập thấp và trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình (GDP bình quân đầu người trên 950 USD/năm) sớm hơn khoảng
một năm. Về xây dựng Đảng, cái mới lớn nhất là Đại hội X đã làm sáng tỏ bản
chất của Đảng và đưa ra cách diễn đạt mới về Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng cũng quyết định cho
đảng viên làm kinh tế tư nhân nhưng phải gương mẫu chấp hành luật pháp, chính
sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp
hành Trung ương.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại
hội XI, Đảng ta đã khẳng định bài học về mục tiêu phải bảo đảm phát
triển bền vững nền kinh tế, đó là: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển
bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”; “Phát
triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực
cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với
nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.”So với Đại hội IX, X, quan điểm phát triển bền vững theo Đại hội XI của Đảng ta đã có nội hàm rộng hơn, gắn kết chặt chẽ hợp lý, hài hòa giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là yêu cầu ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức; tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu”.
Lược qua các chặng đường đổi mới nêu trên, chúng ta càng
thấy rõ: Đường lối đổi mới của Đảng ta không phải tự nhiên mà có. Đó là một quá
trình tìm tòi, thử nghiệm, thông qua đấu tranh gian khổ về tư duy và đòi hỏi
quyết tâm cao, tinh thần quả cảm và trí sáng tạo khoa học.
Đây là quá trình Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, coi cách mạng và đổi mới là sự nghiệp của nhân dân và vì lợi ích của
nhân dân, kiên quyết dựa vào nhân dân, lấy ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của
nhân dân làm cơ sở quan trọng cho mọi quyết sách.
Đây cũng là quá trình Đảng xuất phát từ thực tiễn và
thường xuyên tổng kết thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý,
thông qua thực tiễn mà phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát
triển, khắc phục mọi biểu hiện nóng vội, duy ý chí cũng như bảo thủ, trì trệ,
từng bước hoàn thiện đường lối và chiến lược, không ngừng đưa cách mạng tiến
lên phù hợp với quy luật khách quan và tiến trình lịch sử.
III. Những
thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới:
(Các thầy cô, anh chị, chịu kho viết lại vì không có thời
gian để lọc ra)
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã
thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Thực hiện đường lối đổi
mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về
phát triển kinh tế
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990 (2). Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (3).
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% (4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” (5).
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) (6). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (7).
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực (8).
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) (9).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD (11).
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2. Về phát triển các mặt xã hội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168 USD/người/năm (12), nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 (13).
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam./.
Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển. Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990 (2). Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (3).
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên, Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 - 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% (4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần” (5).
Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995. GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) (6). Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008), nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000 (7).
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực (8).
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm) (9).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD (11).
Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong đó sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần so với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến.
2. Về phát triển các mặt xã hội
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010 đạt 1.168 USD/người/năm (12), nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010 (13).
Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung (bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay, trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561 năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam./.
Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ
X của Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng
ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và
con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận và công
cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơ bản”.
ĐH
lần thứ XI của Đảng đã đánh giá: “Đất nước thực hiện thành công bước đầu công
cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng
cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xhcn được giữ
vững, vị thế và uy tín của VN trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng
hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát
triển mạnh mẽ hơn theo con đường XHCN”; đồng thời khẳng định: “Nhiều vấn đề mới
nảy sinh từng bước được Đảng ta nhận thức và giải quyết có hiệu quả; nhiều vấn
đề liên quan đến Cương lĩnh đã có nhận thức mới, sâu sắc hơn; quan niệm về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng rõ hơn; đổng thời cũng thấy rõ
thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp”./.Câu 8 :
Bằng những
sự kiện tiêu biểu trong Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí làm rõ sự độc
lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta thể hiện trong các Cương lĩnh của Đảng
(1930-2013)?
CHỦ ĐỀ:
TRỌNG TÂM:
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
Tổng hợp đường lối của Đảng qua các
Cương lĩnh
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Đảng ta đã khái quát
tình hình đất nước khi chưa có Đảng như sau: “Từ ngày bị đế quốc Pháp xâm chiếm,
nước ta là một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới
gót sắt của kẻ thù hung ác. Trong mấy mươi năm chưa có Đảng, tình hình đen tối
như không có đường”.
Từ khi ra đời tới nay, với cương lĩnh đúng đắn của mình, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân đứng lên đấu tranh kiên cường, bất khuất, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và đến nay đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. “Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”.
Từ khi ra đời tới nay, với cương lĩnh đúng đắn của mình, Đảng ta đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân đứng lên đấu tranh kiên cường, bất khuất, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và đến nay đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. “Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp”.
1.
Cương lĩnh năm 1930:
1.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước
có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng
chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự
tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại
biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động
ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu
Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có
4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương
trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành
nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên
đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh
chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới
và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ
yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị
của Đảng.
Trong Chánh cương
của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách
mạng để đi tới xã hội cộng sản" (1). Đó là mục đích lâu dài,
cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho
nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân
chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho
nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công,
nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày
nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản lý, thu
hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát
triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp
với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.
Sách lược của Đảng
nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh
đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh
thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị
áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi
đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt
Nam độc lập, người cày có ruộng.
Chương trình tóm
tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của
Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh
bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
Toàn bộ Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam
tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
2. Luận
cương tháng 10-1930
Tháng 10-1930, sau
8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có
ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong nước bị
đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị họp từ ngày
14-10 đến 31-10-1930 thảo luận và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị
quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và
nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai
của Đảng. Hội nghị thông qua 17 văn bản là Nghị quyết, Điều lệ của các tổ chức
đoàn thể cách mạng ở nước ta, công tác vận động công nhân, nông dân, thanh
niên, phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương và bản Thông cáo
cho các Xứ ủy bổ sung nội dung của Cương lĩnh. Hội nghị Trung ương quyết định
đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu đồng chí
Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà bản Luận cương chánh trị là
văn kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Luận cương chánh
trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến mùa thu 1930, sau
khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước, cử bổ sung
vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác -
Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành
lập Đảng (2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh,
thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm
Phả...
Từ phân tích tính
chất, đặc điểm của xã hội các nước Đông Dương thuộc địa của đế quốc Pháp; những
mâu thuẫn kinh tế, giai cấp tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Đông Dương
và đế quốc chủ nghĩa Pháp, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có
những điểm cơ bản giống với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân
quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản
chủ nghĩa; là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân
Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân,
đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức trên thế giới và sử
dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công, bạo động võ
trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung
thành và hy sinh hết thảy vì lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao
động...(2).
Tuy vậy, Luận
cương chánh trị, Án nghị quyết và Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương có những
điểm khác biệt, nhưng không đối lập về tư tưởng chính trị với Chánh cương, Sách
lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm khác biệt đó là ở chỗ bỏ
tên "Việt Nam Cộng sản Đảng", lấy tên "Đông Dương Cộng sản
Đảng"; chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền trong toàn cõi Đông
Dương; lực lượng cách mạng chỉ trong công nhân, nông dân, binh lính, chưa thấy
hết vai trò của lực lượng yêu nước trong tiểu tư sản, tư sản dân tộc; xác định
mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, giữa độc
lập dân tộc và dân chủ nhân dân tuy biện chứng, sâu sắc nhưng chưa định được xu
hướng phát triển nhiệm vụ giải phóng dân tộc có tính quyết định hàng đầu; hệ
thống tổ chức của Đảng quy định thêm tổng bộ, xứ bộ, quận bộ, liên khu bộ và
Đảng đoàn (3).
Có những nguyên
nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên
và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vào điều kiện nước ta; vai trò của lãnh tụ
Đảng, lãnh tụ dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc,
phong kiến.
Sự kiện minh họa: Cách mạng tháng Tám 1945
Bằng sự phân tích sắc bén tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trong nước và cục diện tình hình thế giới cuối thập niên 30, đầu thập niên 40 của
thế kỷ XX, tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa I) tháng 5/1941, Đảng ta đã chỉ rõ
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi
được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân
tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được”3. Từ chỉ báo đó, Đảng ta đã có một quyết tâm chiến lược,
sắt đá. Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự
do. Phương pháp cách mạng lúc này là, Đảng lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa từng phần
ở từng địa phương, mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn4. Bởi vậy toàn
bộ công tác của Đảng phải nhằm vào việc chuẩn bị khởi nghĩa, sẵn sàng đưa quần
chúng nhân dân ra chiến đấu.
Dự báo được thời cơ khởi nghĩa đã là điều không đơn giản, nhưng dự báo thời điểm xuất hiện của thời cơ lại càng khó hơn. Vậy mà Đảng ta đã dự báo rất chính xác.
Trong thư gửi đồng bào toàn quốc tháng 10/1944, đồng chí Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp
tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong
một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”5. Tiên đoán
này là tuyệt đối chính xác. Xuất phát từ nhận định tình hình thực tiễn, Hội nghị
Ban thường vụ Trung ương mở rộng (họp ở làng Đình Bảng, Bắc Ninh) từ ngày 9 đến
ngày 12/3/1945 đã ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Chỉ thị là cương lĩnh hành động gấp rút chuẩn bị mọi mặt tiến tới tổng khởi
nghĩa. Chỉ thị nói rõ “Phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm
tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa” và “sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi
nghĩa một khi đã đủ điều kiện”6. Đúng như dự kiến, sau Hội nghị Đình Bảng, hàng
loạt các cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ở khắp các địa phương và đều giành được thắng
lợi. Tiếp theo Hội nghị Đình Bảng là Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc
dân Tân Trào (Tuyên Quang) diễn ra trong hai ngày 14 và 15/8/1945. Xuất phát từ
tình hình chiến tranh thế giới thứ hai đang đi đến giai đoạn kết thúc (ngày
2/5/1945 Liên Xô đánh chiếm Béc-lin, tiêu diệt phát xít Đức tận hang ổ, tại sào
huyệt của chúng; ngày 8/5/1945 phát xít Đức đầu hàng không điều kiện; ở châu Á,
phát xít Nhật đang lao nhanh tới thảm bại hoàn toàn...), Hội nghị nhận định “cơ
hội tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động toàn dân tổng khởi
nghĩa, giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng
minh vào Đông Dương. Hội nghị đã đề ra ba nguyên tắc hành động: Tập trung, thống
nhất và kịp thời. Đồng thời Hội nghị cũng quyết định những chủ trương lớn để chỉ
đạo cuộc tổng khởi nghĩa: Quân sự và chính trị phải phối hợp; làm tan rã tinh
thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh; đánh chiếm ngay những nơi chắc
thắng, không kể thành phố hay thôn quê.
Trước giờ phút quyết định, đồng chí Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Cả nước ta sôi sục khí thế cách mạng, bốn tỉnh giành được chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh và Tuyên Quang, song cuộc tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi có tính chất quyết định khi các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8) và Sài Gòn (25/8) hoàn toàn thắng lợi. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra đúng như chỉ báo của Đảng, quân sự và chính trị phối hợp hài hòa, làm cho địch tan rã từng mảng và đầu hàng cách mạng; đánh chiếm trước những nơi chắc thắng, không kể là thành thị hay nông thôn. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra theo những quá trình rất sinh động và linh hoạt, ở 28 tỉnh, phần lớn là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, khởi nghĩa nổ ra từ xã lên huyện rồi lên tỉnh; 24 tỉnh thuộc Nam Kỳ và Trung Kỳ, khởi nghĩa nổ ra trước ở tỉnh rồi kết thúc thắng lợi ở huyện và xã; 7 tỉnh, khởi nghĩa nổ ra đồng thời ở tỉnh, huyện và xã.
Trước giờ phút quyết định, đồng chí Hồ Chí Minh đã kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Cả nước ta sôi sục khí thế cách mạng, bốn tỉnh giành được chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất là Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh và Tuyên Quang, song cuộc tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi có tính chất quyết định khi các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8) và Sài Gòn (25/8) hoàn toàn thắng lợi. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra đúng như chỉ báo của Đảng, quân sự và chính trị phối hợp hài hòa, làm cho địch tan rã từng mảng và đầu hàng cách mạng; đánh chiếm trước những nơi chắc thắng, không kể là thành thị hay nông thôn. Tổng khởi nghĩa đã diễn ra theo những quá trình rất sinh động và linh hoạt, ở 28 tỉnh, phần lớn là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, khởi nghĩa nổ ra từ xã lên huyện rồi lên tỉnh; 24 tỉnh thuộc Nam Kỳ và Trung Kỳ, khởi nghĩa nổ ra trước ở tỉnh rồi kết thúc thắng lợi ở huyện và xã; 7 tỉnh, khởi nghĩa nổ ra đồng thời ở tỉnh, huyện và xã.
Dự báo đúng thời cơ, chỉ báo đúng thời điểm, phát động toàn dân khởi nghĩa, hành động mau lẹ, kịp thời, kiên quyết và quả cảm trong những giờ phút quyết định của lịch sử là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Đúng như Lênin đã tổng kết “Lịch sử sẽ không tha thứ cho những
người cách mạng có thể thắng lợi hôm nay (và chắc chắn sẽ thắng lợi hôm nay) mà
lại để chậm trễ, vì để đến ngày mai, không khéo họ sẽ mất nhiều, không khéo họ
sẽ mất tất cả”. Theo quan điểm của Lênin thì chúng ta đã được, được lớn và được
nhiều; chúng ta chỉ mất một thứ mà từ lâu chúng ta muốn trút bỏ, đó là xiềng
xích nô lệ.
II. Bản
chính cương chính trị thông qua tại Đại hội lần thứ II của Đảng (2-1951)
Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11 đến 19-2-1951
tại xã Vinh Quang (nay xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Đại hội đưa
ra những văn kiện quan trọng: Diễn văn khai mạc Đại hội do đồng chí Tôn Đức
Thắng đọc; Báo cáo hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân,
tiến tới chủ nghĩa xã hội, tức là bản Luận cương cách mạng Việt Nam, do đồng
chí Trường Chinh trình bày; Chính cương Đảng Lao động Việt Nam; Điều lệ Đảng
Lao động Việt Nam; Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam, là những văn kiện chủ
yếu về nội dung Cương lĩnh thứ ba của Đảng. Tại Đại hội có 6 báo cáo tham luận
về Mặt trận, chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng quân đội, kinh tế tài
chính, xây dựng văn nghệ nhân dân và thi đua ái quốc cùng 4 Nghị quyết Đại hội
về Báo cáo chính trị, công tác quân sự, công tác mặt trận và dân vận, về tờ báo
Nhân dân là cơ quan Trung ương của Đảng, bổ sung cho nội dung Đại hội.
Báo cáo chính trị
đã tổng kết khái quát tình hình thế giới trong nửa đầu thế kỷ XX; thắng lợi
cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời lãnh đạo qua các thời kỳ cho đến giai
đoạn tổng phản công của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đề ra từ năm 1950,
đã chứng tỏ đường lối, chính sách của Đảng ta là đúng; thành tích nhiều, khuyết
điểm cũng không ít như khuynh hướng hoặc "tả" hoặc "hữu",
chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, hẹp hòi và bệnh công thần. Từ đó xác định tình
hình mới, nhiệm vụ mới của Đảng, nhiệm vụ chính trước mắt là đưa kháng chiến
đến thắng lợi hoàn toàn và tổ chức xây dựng Đảng Lao động Việt Nam, để lãnh đạo
toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện tiến đến chủ nghĩa xã
hội" (4).
Luận cương cách
mạng Việt Nam là bản Cương lĩnh chính trị mới của Đảng. Phân tích tính chất xã
hội Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa
và phần nửa phong kiến; mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm
lược diễn ra quyết liệt dưới hình thức chiến tranh; đối tượng của cách mạng
Việt Nam là thực dân Pháp và can thiệp Mỹ cùng bè lũ Việt gian bù nhìn bán
nước; xác định nhiệm vụ cơ bản hiện thời của cách mạng là đánh đuổi bọn đế quốc
xâm lược làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập thống nhất, xóa bỏ những di tích
phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân
chủ nhân dân; gây cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó có
nghĩa cuộc kháng chiến chống Pháp là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhiệm vụ
phản đế giải phóng dân tộc là trọng tâm, nhiệm vụ chống phong kiến, giành quyền
dân chủ tiến hành đồng thời nhưng phải có kế hoạch tiến hành từng bước, nhiệm
vụ giải phóng dân tộc bao gồm cả hai nhiệm vụ phản đế và phản phong; cách mạng
dân tộc dân chủ do nhân dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiến triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường tiến đến chủ nghĩa xã hội trải qua
một thời gian dài gồm 3 giai đoạn, kế tục nhau và quan hệ mật thiết: kháng
chiến tiêu diệt đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, củng cố Nhà nước dân chủ
nhân dân; cải cách ruộng đất triệt để, phát triển nông nghiệp, công nghiệp dưới
hình thức hợp tác hóa, kỹ nghệ hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Luận cương cách
mạng Việt Nam là sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân của Đảng, soi sáng nhiệm vụ trước mắt và về sau của cách mạng nước
ta.
Đại hội lần thứ II
quyết định đưa Đảng ra công khai và lấy tên Đảng Lao động Việt Nam. Bổ sung cho
Cương lĩnh của Đảng còn có Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ Đảng xác định mục
đích, tôn chỉ, nhiệm vụ lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi
và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ cơ sở đến Trung ương
và trong quân đội bao gồm các cấp ủy: Chi ủy, Đảng ủy, quận, huyện ủy, thị ủy,
tỉnh ủy, thành ủy, xứ ủy, khu ủy, Trung ương. Trong Đảng đã đặt ra chế độ khen
thưởng và kỷ luật nghiêm minh để tất cả đảng viên, tổ chức đảng thi hành.
Sự kiện minh họa:
1.Kháng
chiến chống Pháp:
Sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp mang dã tâm ngông cuồng, gây chiến tranh hòng cướp nước ta một lần nữa. Tương quan lực lượng chênh lệch quá lớn bất lợi cho ta, nhưng bằng những luận cứ khoa học và thực tiễn, Đảng ta đã chỉ báo ngay từ đầu là “Kháng chiến nhất định thắng lợi” và ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Đảng ta đã lãnh đạo cuộc kháng chiến trải qua ba giai đoạn có tính cột mốc để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đó là chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, Việt Bắc trở thành mồ chôn quân thù; Chiến thắng biên giới Thu - Đông năm 1950, phá tan kế hoạch “Khóa cửa biên giới” của địch đối với ta; cuộc Tổng tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 và chiến thắng vĩ đại Điện Biên Với những thắng lợi vô cùng to lớn đó của chúng ta, ngày 20/7/1954, tại Giơ-ne-vơ, Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định đình chiến với Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ đã kết thúc thắng lợi vẻ vang.
2.Kháng chiến chống Mỹ:
Đế quốc Mỹ cậy lắm tiền, nhiều của, tiềm lực quân sự là vô địch nên đã nhảy vào miền Nam nước ta, hất cẳng Pháp, hòng nhanh chóng biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Một lần nữa nhân dân ta phải đứng lên chiến đấu, giải phóng đất nước. Ngay từ đầu của cuộc chiến đấu không cân sức, Đảng ta đã chỉ báo “Cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới là: Chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”. Cách mạng (nghệ thuật để chiến thắng) là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Dưới sự lãnh đạo tài trí của Đảng, kết hợp nhuần nhuyễn ba mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, nhân dân ta đã trải qua năm chặng đường chiến tháng để cuối cùng đi đến đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp mang dã tâm ngông cuồng, gây chiến tranh hòng cướp nước ta một lần nữa. Tương quan lực lượng chênh lệch quá lớn bất lợi cho ta, nhưng bằng những luận cứ khoa học và thực tiễn, Đảng ta đã chỉ báo ngay từ đầu là “Kháng chiến nhất định thắng lợi” và ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Đảng ta đã lãnh đạo cuộc kháng chiến trải qua ba giai đoạn có tính cột mốc để đi đến thắng lợi cuối cùng. Đó là chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, Việt Bắc trở thành mồ chôn quân thù; Chiến thắng biên giới Thu - Đông năm 1950, phá tan kế hoạch “Khóa cửa biên giới” của địch đối với ta; cuộc Tổng tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 và chiến thắng vĩ đại Điện Biên Với những thắng lợi vô cùng to lớn đó của chúng ta, ngày 20/7/1954, tại Giơ-ne-vơ, Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định đình chiến với Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ đã kết thúc thắng lợi vẻ vang.
2.Kháng chiến chống Mỹ:
Đế quốc Mỹ cậy lắm tiền, nhiều của, tiềm lực quân sự là vô địch nên đã nhảy vào miền Nam nước ta, hất cẳng Pháp, hòng nhanh chóng biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Một lần nữa nhân dân ta phải đứng lên chiến đấu, giải phóng đất nước. Ngay từ đầu của cuộc chiến đấu không cân sức, Đảng ta đã chỉ báo “Cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới là: Chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”. Cách mạng (nghệ thuật để chiến thắng) là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Dưới sự lãnh đạo tài trí của Đảng, kết hợp nhuần nhuyễn ba mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, nhân dân ta đã trải qua năm chặng đường chiến tháng để cuối cùng đi đến đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
III.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong Đại hội VII (6-1991) được bổ sung
phát triển tháng 01- 2011 trong Đại hội
XI.
Cương
lĩnh 1991
Báo cáo chính trị
- nền tảng của Cương lĩnh đã đánh giá 4 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn
diện theo Nghị quyết Đại hội VI (12-1986) của Đảng, với những thành tựu, yếu
kém và khó khăn trên các mặt chính trị, kinh tế - xã hội; quyền làm chủ nhân
dân, quốc phòng - an ninh và quan hệ quốc tế; đồng thời đúc rút 5 bài học kinh
nghiệm chủ yếu; đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm (1991 - 1995), 5 mục tiêu cụ
thể, 4 phương châm chỉ đạo và một số nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện các mục tiêu
dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Bản Cương lĩnh đã
tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ năm 1930, đúc rút 5
bài học lớn về nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp
cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố,
tăng cường đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết
quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương
lĩnh đặc biệt nêu 6 đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó
là xã hội "do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá
nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến
bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới" (5).
Cương lĩnh xác
định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, trải qua
nhiều chặng đường vừa xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc, nên phải nắm vững 7 phương
hướng cơ bản. Đó là: Xây dựng Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; thực hiện công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại; thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phù hợp
với sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hóa theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hành
chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu
nghị; kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn
vinh.
Xuất phát từ Cương
lĩnh đó, chiến lược của Đảng là phải ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đưa
đất nước ra khỏi khủng hoảng, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển,
cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng Đảng gắn với xây
dựng, thực hiện Cương lĩnh, chiến lược công cuộc đổi mới, xây dựng hệ thống
chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đổi mới và tự
chỉnh đốn Đảng ở các cấp từ dưới cơ sở đến Trung ương.
2.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011)
Về quá trình cách mạng Việt Nam Một là, Cương lĩnh đã khẳng định những thắng lợi vĩ đại và những thành quả mà những thắng lợi vĩ đại đó mang lại.
(1) Cương lĩnh khẳng định: Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại.
- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do (cơ bản như Cương lĩnh 1991).
- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế (cách diễn đạt này đáp ứng ba yêu cầu: Trung thực với lịch sử; cổ vũ niềm tự hào dân tộc và phù hợp với quan hệ đối ngoại trong tình hình hiện nay).
- Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam (có bổ sung, phát triển so với Cương lĩnh năm 1991).
(2) Cương lĩnh bổ sung nội dung về những thành quả do các thắng lợi nêu trên mang lại:
- Nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa;
- Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội;
- Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Hai là, Cương lĩnh đánh giá tổng quát sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân, thái độ của Đảng.
- Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng.
- Nguyên nhân: do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan.
- Thái độ: Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.
Về những bài học kinh nghiệm lớn
Cương lĩnh năm 1991 nêu 5 bài học lớn: (1) Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; (2) Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (3) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; (4) Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; (5) Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cơ bản giữ nguyên 5 bài học như Cương lĩnh năm 1991, có một số bổ sung, phát triển.
- Bổ sung vào nội dung bài học thứ hai, nói rõ: “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân, sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. Thực tế tình trạng tham nhũng của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận mệnh của đất nước, đến sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa và đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng.
- Chính xác hoá một số từ ngữ cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Việt Nam Việt Nam” chứ không chỉ là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh năm 1991.
- Khắc phục cách diễn đạt trùng lắp ở các bài học thứ nhất, thứ ba, thứ tư; bỏ ý nghĩa của từng bài học./.
Sự kiện
minh họa: Công cuộc đổi mới và thành tựu hiện nay
Trong sự biến động chính trị chấn động trời đất trên thế giới như thế, nhưng ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam trước sau như một, vẫn kiên định con đường đã chọn - con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa mà nền tảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi. Đổi mới ở nước ta hay cải tổ, cải cách ở các nước, điều đầu tiên hết sức then chốt là phải xác định đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Nếu xác định không chuẩn xác, bước đi ban đầu bị lệch chuẩn thì chính đây là nguy cơ cho đổi mới, cho cải tổ. Năm 1992, sau khi thảm họa xảy ra, một nhân chứng của đất nước sụp đổ đã viết trong hồi ký của mình rằng: Bước vào cải tổ, những vấn đề tư tưởng, chính trị, tự do, dân chủ không thể nào tiêu hóa được trong cái dạ dày kinh tế rách nát... Câu nói đó như một kết luận thực tiễn, không thể cải tổ chính trị trước khi cải cách kinh tế. Ở nước ta, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã tư duy rất mạch lạc, rất đúng đắn rằng, “trong quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta tập trung làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”13. Thực tiễn đã chứng minh con đường đổi mới sáng tạo của Đảng ta (một luận điểm chưa hề có trong tiền lệ) là hoàn toàn đúng đắn và có độ chính xác rất cao. Kết quả là, “sau 20 năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta... đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, bước đầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường; sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao”14.
Ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã tuyên bố: nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nói đúng sự thật, nói hết sự thật. Từ đó đến nay, Đảng ta thường xuyên phát huy dân chủ rộng rãi, ra sức tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, hoàn thiện đường lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện; tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện đạo đức, phẩm chất; đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí; đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ chính trị nội bộ; xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng để làm tròn sứ mệnh của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, đưa đất nước ta từng thời gian bước lên những tầm cao mới của sự phát triển.
Câu 9 :
Nhận thức
của đồng chí về vai trò lãnh đạo của Đảng đưa đến mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam (từ 1930 đến nay)?
CHỦ ĐỀ:
TRỌNG
TÂM:
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
I- Đường lối cách mạng đúng đắn của
Đảng- nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của CMVN
1.
Đường lối đúng đắn của Đảng trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
Mục đích của cách
mạng giải phóng dân tộc là đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành
độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân giành được thắng lợi này chính nhờ đường lối đúng đắn, phù
hợp với yêu cầu của lịch sử.
Trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, khi giai cấp tư sản vừa bóc lột giai cấp công nhân ở chính
quốc, vừa bóc lột nhân dân thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi triệt để phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Đảng của giai cấp vô sản ở
các nước thuộc địa nắm lấy và giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn phong
trào giải phóng dân tộc trong nước với phong trào cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt
Nam là người duy nhất có thể thực hiện được nhiệm vụ đó vì Đảng tập hợp được
đông đảo quần chúng nhân dân đi theo mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
"Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy"5.
Vì vậy, có thể nói
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đáp ứng yêu
cầu của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam, của sự nghiệp giải phóng
dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 trước hết là thắng lợi của
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2.
Đường lối đúng đắn của Đảng trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng,
phát triển đất nước
V.I.Lênin khẳng
định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Sau thắng lợi của
cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập
hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được
khả năng đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc,
trung thành, kiên định với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh
vì nền độc lập dân tộc nên được nhân dân tin tưởng và đi theo.
Trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam có khả năng to lớn để
lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới vì con đường cách mạng do Đảng lãnh đạo
phù hợp với thời đại và quy luật phát triển của xã hội. Đảng không có mục đích
tự thân. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, lợi ích
của toàn dân tộc Việt Nam, lợi ích của nhân dân tiến bộ trên thế giới, Đảng
không có lợi ích nào khác.
Lịch sử cách mạng
Việt Nam cận đại, hiện đại đã chứng tỏ không có một tổ chức chính trị nào có
thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế trong
quá trình đấu tranh giành và giữ chính quyền, có những lực lượng chính trị tham
gia cùng với Đảng, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn, họ đều chùn bước. Chỉ có
Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp vô sản, của dân
tộc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì lợi ích đó. Biết bao đảng viên và quần chúng
của Đảng đã suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lý tưởng cao cả, vì độc lập, tự do
của Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Hoặc tham khảo thêm bài viết sau:
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua, kể từ
ngày thành lập Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra một trong năm bài học
kinh nghiệm lớn: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng
lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công và kháng chiến chống xâm lược thắng
lợi
Xuất phát từ bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lấy thực tiễn xã hội
Việt Nam làm cơ sở cho việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin khi xác
định đường lối cách mạng nước ta, ngay từ khi ra đời, Đảng ta xác định nhiệm
vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải
qua ba cao trào cách mạng (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945), Đảng ta nhận
thức ngày càng sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó: Tuy hai nhiệm
vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ
chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng
bước với những khẩu hiệu cụ thể như: Giảm tô, giảm thuế, chia ruộng đất công,
chia ruộng đất của bọn phản động cho người dân nghèo... Đảng đã xây dựng được
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên toàn dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi.
Đảng đã lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; chủ động kiên
quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp để
đập tan nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân; coi khởi nghĩa là
một nghệ thuật, nghệ thuật chọn đúng thời cơ tiến hành Tổng khởi nghĩa...
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đập tan ách thống trị của thực dân Pháp
trong gần một thế kỷ, ách thống trị của phát-xít Nhật, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập,
tự do.
Vừa mới ra đời,
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã bị các nước đế quốc, các thế lực phản động
câu kết với nhau chống phá quyết liệt, hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng
non trẻ. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối
cảnh vừa có thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn, hiểm nghèo.
Giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm là những hiểm họa đối với chế độ mới,
vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc", Tổ quốc lâm nguy.
Với quyết tâm:
Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ,
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành
chín năm trường kỳ kháng chiến. Đảng đã đề ra đường lối đúng đắn và quán
triệt thật sâu sắc đường lối đó cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện.
Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa
vào sức mình là chính và tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức
chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh, làm nên chiến
thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.
Với thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ
mới với đặc điểm: Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ
chính trị - xã hội đối lập nhau. Miền bắc được giải phóng, bắt đầu xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa. Miền nam vẫn còn dưới ách đô hộ, áp bức của đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai. Đảng ta đã xác định con đường phát triển của cách mạng
nước ta phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc, xây dựng miền bắc thành căn cứ địa
vững chắc của cả nước; hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, giải phóng miền nam, thống
nhất đất nước. Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, cách mạng miền bắc giữ vai trò
quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Cách
mạng miền nam giữ vị trí quan trọng, tác động trực tiếp đối với sự nghiệp
giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, trải qua 21 năm nỗ lực phấn đấu, công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền bắc đã đạt được những thắng lợi rất đáng tự hào. Quân
dân miền bắc đã chiến thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, điển
hình là chiến thắng lịch sử của trận "Điện Biên Phủ trên không"
trên bầu trời Hà Nội cuối năm 1972.
Miền bắc không
chỉ chia lửa với các chiến trường mà còn hoàn thành xuất sắc vai trò là căn
cứ địa của cách mạng cả nước và làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền
tuyến lớn miền nam.
Quân và dân miền
nam đã vượt lên mọi gian khổ, hy sinh, kiên cường, bền bỉ và anh dũng chiến
đấu, lần lượt giành thắng lợi trước các chiến lược chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ. Trải qua 21 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước đã
chiến đấu kiên cường anh dũng, với sự đồng tình, giúp đỡ to lớn của bạn bè
quốc tế, bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, với Chiến dịch
Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Tiếp theo đó,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã chiến thắng các cuộc chiến tranh
biên giới phía bắc và tây nam, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
Đảng
khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
Sau khi giải
phóng miền nam, thống nhất đất nước, bên cạnh thuận lợi và những thành tựu đã
đạt được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước, chúng ta cũng đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức mới. Tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn tiến nhanh
lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh
tế, cùng với những khuyết điểm của mô hình kinh tế hàng hóa tập trung quan
liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình kinh tế - xã hội rơi vào
trì trệ, khủng hoảng. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận...
Để đưa nước ta
thoát khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới mạnh
mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Cuối những năm 70 thế kỷ XX, ở một số địa
phương, bắt đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra những
lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Để đưa đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, chúng ta đã phải trải qua một quá trình tìm
tòi, thử nghiệm, đấu tranh tư tưởng và tổng kết thực tiễn rất gian khổ. Trải
qua ba bước đột phá cục bộ về tư duy kinh tế, Đại hội VI (tháng 12-1986) đã
đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới
tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội
đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phải nắm
vững quy luật khách quan, dân là gốc.
Từ đó đến nay,
văn kiện các Đại hội Đảng toàn quốc, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị
ngày càng bổ sung, phát triển hoàn thiện đường lối đổi mới. Những thành tựu
đạt được trong 25 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra
khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân
có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; tạo tiền đề để
nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.
Đại hội XI của
Đảng (tháng 1-2011) đã khẳng định: Thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt
được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta
là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp quy
luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Tổng kết quá
trình hơn 80 năm cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011) đã khẳng định: "Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành
cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách và giành được những thắng lợi vĩ đại".
Những thắng lợi
vĩ đại trong hơn 80 năm qua, bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó nhân tố
quyết định hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Nghị quyết hội nghị
Trung ương 4, khóa XI về "Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng
Đảng hiện nay" một lần nữa khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây
dựng và trưởng thành vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của
một đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với
nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp
cách mạng.
|
II. 3
thắng lợi vĩ đại của CMVN
Trải qua hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua muôn ngàn khó khăn,
thử thách, làm nên những thành tựu vĩ đại, đó là:Thứ nhất: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã xoá bỏ chế độ thực dân, nửa phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là kết quả tổng hợp của các phong trào cách mạng liên tục diễn ra trong 15 năm sau ngày thành lập Đảng, từ cao trào Xô viết Nghệ tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945, mặc dù cách mạng có những lúc bị dìm trong máu lửa.
Thứ hai: Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
III. NHỮNG BÀI HỌC
KINH NGHIỆM LỚN CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 1-2011) trên cơ sở tổng
kết thực tiễn hơn 80 năm cách mạng nước ta đã nêu ra năm bài học kinh nghiệm
lớn của cách mạng Việt Nam.
Một
là, nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn
cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế
hệ mai sau.
Độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội là hai mặt, hai mục tiêu, hai nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam, có mối liên hệ hữu cơ với nhau: Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn kiên định hai mục tiêu
chiến lược này và xử lý đúng đắn mối quan hệ này. Nhờ đó, cách mạng Việt Nam
giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Hai
là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là người sáng tạo lịch sử. Thực
tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, chính nhân dân là người làm nên
những thắng lợi lịch sử.
Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng hơn 80 năm qua, toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát từ
lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân.
Quan liêu, tham
nhũng là biểu hiện của sự xa dân, làm mất niềm tin của nhân dân, Đảng ta khẳng
định: "Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất
khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của
Đảng"6.
Ba là,
không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kêu dân tộc,
đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết giai cấp
là một tư tưởng lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin với những khẩu hiệu
như: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!” "Vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”.
Đoàn kết là truyền
thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành
công, đại thành công”7.
Từ Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn
được Đảng ghi trong chủ đề Đại hội.
Bốn
là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
mạnh quốc tế.
Trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác
quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố
truyền thống với yếu tố hiện đại. Đây chính là truyền thống quý báu của Đảng
ta.
Từ khi thành lập
đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn với tinh thần độc lập,
sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời, phát huy tối đa sự giúp đỡ của
bạn bè quốc tế, sức mạnh của thời đại.
Năm
là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
Đảng ta đã lãnh
đạo nhân dân giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác vì Đảng không có lợi
ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Đường lối của Đảng
chỉ đúng đắn khi Đảng nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các
vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra; mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.
Sai lầm về đường
lối có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường. Vì vậy, Đảng phải luôn luôn phòng
và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái
hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Thứ ba: Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới.
Với những thắng lợi đó, Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.
II. SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
1.
Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân
tộc
a) Đảng
lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền
Ngay khi vừa mới
ra đời, với đường lối cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ, đoàn kết chung
quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp nhân dân yêu nước, xây dựng nên
lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn
phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm lãnh
đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ, hy sinh, với ba cao trào
cách mạng lớn (1930-1931, 1936-1939, 1939-1945), khi thời cơ đến, Đảng đã phát
động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công đã giành lại nền độc lập của dân tộc sau hơn 80 năm bị đô
hộ. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên
ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới -
kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
b) Đảng
lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới
ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải đối mặt với ba thứ giặc: giặc
đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vận mệnh của đất nước trước tình thế
"ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất
cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Đối với
các thế lực thù địch, Đảng đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn,
phân hóa chúng, dành thời gian để củng cố lực lượng. Với đường lối chính trị
sáng suốt, Đảng đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, giữ
vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt
cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
c)
Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn
độc lập và hòa bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã nhân
nhượng, thực dân Pháp vẫn ngày càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một
lần nữa. Dân tộc ta buộc phải chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân
tộc.
Đêm ngày
19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả
nước đồng loạt đứng lên với tinh thần "thà hy sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"2. Với
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là
chính; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua
mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược bằng chiến thắng tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ
(7-5-1954).
Chiến thắng Điện
Biên Phủ được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay
một Đống Đa của thế kỷ XX; góp phần phá vỡ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân cũ, dẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân.
d)
Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược
(1954-1975)
Với thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, thực hiện quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã xóa bỏ
Hiệp định Giơnevơ hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Đất nước tạm thời bị chia
làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội đối lập nhau. Đảng
xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng
thời hai nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa vững mạnh của cách
mạng cả nước.
Hai là
tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giải phóng miền Nam,
thực hiện thống nhất nước nhà. Mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác
nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự phát triển của
cách mạng Việt Nam; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí
quan trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành đồng thời hai
cuộc cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam.
Từ năm 1965, khi
đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cả nước ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với tinh thần "Không có gì quý hơn
độc lập tự do!”, "hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn
phải chiến đấu quét sạch nó đi” , "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào", dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn,
gian khổ, hy sinh, lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc.
Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và thắng lợi của Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra thời kỳ
mới - thời kỳ độc lập, thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của cuộc
đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm
sáng tỏ một chân lý: Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù nhỏ bé,
dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác -Lênin, đoàn kết đứng lên, kiên quyết đấu
tranh để giành độc lập và dân chủ, có thể chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
2.
Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng xã hội mới (từ năm 1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ
cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận lợi cơ
bản, nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản
xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Trong
khi đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài bao vây, cấm vận
.., luôn tìm mọi cách phá hoại cách mạng nước ta. Bắt đầu từ cuối những năm 70
của thế kỷ XX, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn
biến phức tạp, đặc biệt là sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong 10 năm đầu
(1975 - 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, trở
ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành
việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá -
xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn để khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do
nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế - xã hội đạt được còn
thấp so với yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế mất cân đối nghiêm
trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế -
xã hội.
Với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định
những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết
điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại hội đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong các nhiệm kỳ
Đại hội VII (1991-1996), Đại hội VIII (1996-2001), Đại hội IX (2001-2006), Đại
hội X (2006-2011), Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn để phát triển, hoàn
thiện đường lối đổi mới và lãnh đạo nhân dân ta phát huy tinh thần sáng tạo,
thực hiện đổi mới toàn diện đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng (tháng 1-2011) đã khẳng định: "thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù
hợp thực tiễn Việt Nam...; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém
phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế
rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới"3.
Về mặt
thực tiễn, đường
lối đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
bước vào thời kỳ phát triển tương đối ổn định, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, thoát khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung
bình; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện; đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường; chính trị - xã hội ổn
định; quốc phòng và an ninh được giữ vững; vị thế nước ta trên trường quốc tế
không ngừng nâng cao; sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều.
Về mặt
lý luận, hệ thống quan điểm
lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Những thành tựu đó
chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng
cũng có mặt, lĩnh vực còn yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan
trọng là Đảng sớm phát hiện ra những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm của mình, đề
ra những biện pháp sữa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công khai tự phê bình,
nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì
vậy, Đảng ta được nhân dân tin cậy, thừa nhận là người lãnh đạo chân chính, duy
nhất, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam.Câu 10 :
Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (01/2011) đã đề ra những đột phá nào
trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội đất
nước?
CHỦ ĐỀ:
TRỌNG
TÂM:
GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ:
3 điểm
nghẽn
3 khâu
đột phá
(Dưới đây là toàn văn bài viết của Thủ tướng, các anh chị tự
chỉnh sửa lại nhé)
Đại hội toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011 - 2020 với mục tiêu tổng quát là "Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định,
dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền
đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau".
Chiến lược đề ra 5
quan điểm, 12 định hướng phát triển, hình thành một hệ thống đồng bộ các mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã
hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... như một chỉnh thể thống
nhất, bảo đảm phát triển bền vững. Để tạo tiền đề thực hiện thành công các mục
tiêu, nhiệm vụ này, Chiến lược xác định phải đột phá vào ba khâu yếu, hiện đang
là những điểm nghẽn, cản trở sự phát triển và nếu giải quyết tốt các khâu này
sẽ tạo xung lực mới có sức lan toả mạnh, giải phóng mọi tiềm năng, khai thác có
hiệu quả các nguồn lực cho phát triển nhanh và bền vững.
I
Xác
định đúng các đột phá chiến lược - bài học từ tiến trình đổi mới
Vào cuối những năm
70, đầu những năm 80 của thế kỷ trước, đất nước ta đứng trước mâu thuẫn lớn
giữa tiềm năng và yêu cầu phát triển với thực trạng khủng hoảng kinh tế xã hội
kéo dài, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, các ngành sản xuất trì trệ. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó quan trọng
nhất là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh tế. Trên nền tảng đổi mới tư
duy kinh tế, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà
nước và hợp tác xã độc quyền kinh doanh theo kiểu bao cấp, chuyển sang vận hành
cơ chế kinh tế thị trường với các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế phát
triển sống động, đạt tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân từng bước được
cải thiện. Sự chuyển đổi cơ chế nêu trên đã giải quyết được mâu thuẫn trong sự
phát triển của đất nước và thực sự là một đột phá chiến lược. Từ đột phá có
tính mở đường này, chúng ta đã thực hiện thành công Chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng,
tạo đà cho bước phát triển mới, cao hơn.
|
Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 -
2010 với ba khâu đột phá: (i) Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải
phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước; (ii)
Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ; (iii) Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Sau 10 năm triển
khai thực hiện, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đất nước thoát
khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển
có thu nhập trung bình. Thể chế kinh tế thị trường cơ bản được hình thành, các
loại thị trường từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn kết ngày
càng tốt hơn với thị trường thế giới. Quy mô giáo dục và đào tạo tăng nhanh,
chất lượng nguồn nhân lực có bước cải thiện đáng kể. Cải cách hành chính mà
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính được triển khai mạnh mẽ và đạt được
những kết quả tích cực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong sản
xuất kinh doanh, thực hiện các giao dịch.
Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn các hạn chế, yếu kém, đặc biệt là
việc tổ chức hiện các khâu đột phá vẫn thiên về hướng tiệm tiến, chưa thực sự
quyết liệt và thiếu đồng bộ, sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để. Những
hạn chế, yếu kém này đang cản trở sự phát triển và để đất nước phát triển
nhanh, bền vững, cần phải tập trung sức giải quyết, tháo gỡ. Chính vì vậy,
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 xác định ba khâu đột phá,
gồm: (i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính;
(ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; và, (iii)
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
II
Tập
trung giải quyết các đột phá chiến lược, tạo tiền đề tái cấu trúc nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng - Nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhiệm kỳ 2011
- 2016
1.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là
tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính
Yêu cầu cơ bản để
thể chế kinh tế thị trường phát huy hết mặt tích cực của nó là các yếu tố của
kinh tế thị trường hình thành đầy đủ, các loại thị trường phát triển đồng bộ
với độ minh bạch cao, được quản lý và giám sát tốt; nhờ đó, thị trường xác lập
sự cân bằng động trong phân bố nguồn lực vào các ngành sản xuất và dịch vụ theo
tín hiệu thị trường, bảo đảm hiệu quả kinh tế. Thiếu các điều kiện này, thị
trường không thể cho tín hiệu đúng, các nguồn lực không thể dịch chuyển thuận
lợi và do đó, các chủ thể kinh doanh không thể phát huy được tiềm năng và nền
kinh tế không đạt được hiệu quả. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 -
2020 xác định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại là tiền
đề quan trọng để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một tiêu chí quan
trọng đo lường sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường là mức độ cạnh
tranh trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Cạnh tranh làm bộc lộ khả năng
của các chủ thể kinh tế. Trong môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia
thị trường buộc phải phát huy lợi thế so sánh, chuyển lợi thế so sánh thành lợi
thế cạnh tranh; đồng thời, luôn tìm cách tạo lập lợi thế cạnh tranh mới nhằm
không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, mở rộng thị trường, phát
triển sản xuất kinh doanh. Đây chính là triết lý tăng trưởng mới - Tăng trưởng
dựa trên sức cạnh tranh.
|
Nhiệm vụ đặt ra
trong nhiệm kỳ 2011 - 2016 là phải tiếp tục hoàn thiện các cơ chế chính sách để
các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, chứng khoán, bất động sản,
lao động, khoa học công nghệ được tạo lập đồng bộ và vận hành thông suốt, có
tính cạnh tranh cao và gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới, được
quản lý và giám sát hiệu quả. Quá trình tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường theo yêu cầu trên đây phải gắn liền với việc hạn chế tối đa độc quyền
kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, tạo lập môi trường kinh doanh
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đây là hai mặt của một quá trình không
thể tách rời. Phải xác định rõ những ngành nghề mà tính độc quyền còn cao để có
chính sách và giải pháp phù hợp, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia
kinh doanh. Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, đặt doanh nghiệp nhà nước
vào môi trường cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, loại bỏ
các hình thức ưu đãi và bao cấp còn tồn tại trên thực tế; minh bạch hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chí của doanh nghiệp đăng ký trên thị
trường chứng khoán. Đổi mới cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với
doanh nghiệp nhà nước theo hướng cơ quan hoạch định chính sách không đồng thời
thực hiện chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp.
Trong điều kiện
các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng,
các quan hệ kinh tế ngày càng phức tạp và thay đổi khó lường, độ rủi ro và tính
bất định tăng lên, không thể thực hiện có hiệu quả các yêu cầu trên đây nếu
không xây dựng được một hệ thống thể chế chất lượng cao. Muốn vậy, phải cải
cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung: thể chế, tổ chức
bộ máy, thủ tục hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp
lý, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng quản trị công - một trong những điểm yếu
trong quản lý ở nước ta. Phải nâng cao tính minh bạch và khả năng dự đoán của
chính sách để vừa giảm thiểu sự bất định, độ rủi ro đối với nhà đầu tư, vừa
tránh đầu cơ, ngăn chặn tham nhũng và giảm các chi phí giao dịch cho doanh nghiệp.
Tăng cường sự tham gia của người dân và doanh nghiệp vào quá trình xây dựng
chính sách và thể chế; đề cao vai trò phản biện xã hội và trách nhiệm giải
trình của các cơ quan quản lý trong việc hoạch định chính sách và đánh giá hiệu
quả thực thi.
Cần thay đổi tư
duy và cách tiếp cận khi xác định vai trò của nhà nước và mối quan hệ giữa nhà
nước và thị trường. Phải chuyển mạnh từ nhà nước điều hành nền kinh tế sang nhà
nước kiến tạo phát triển. Trong nhà nước kiến tạo phát triển, chức năng của nhà
nước là xây dựng quy hoạch phát triển theo một chiến lược công nghiệp hóa hiện
đại hóa đúng đắn; tạo môi trường và điều kiện cho các thành phần kinh tế phát
huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế; tăng cường
giám sát để phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ
mô và an toàn hệ thống. Chính vì vậy, Đại hội Đảng lần thứ XI xác định tạo lập
môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính là trọng tâm trong khâu
đột phá về thể chế.
Trong quá trình
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải đặc biệt quan tâm đến bản chất xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế mà chúng ta xây dựng. Cần có sự nhận thức đúng
rằng thị trường hoạt động theo quy luật của nó, thị trường có những mặt tiêu
cực và tự nó không bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển. Chức
năng này phải là của Nhà nước. Nhà nước bằng quy hoạch, kế hoạch, các chính
sách và công cụ điều tiết, hướng các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực và các
vùng miền, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn liền với xóa đói giảm nghèo, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quan tâm phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã
hội hài hòa với phát triển kinh tế. Trong 5 năm tới, phải đầu tư cao hơn cho
nông nghiệp nông thôn, triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới,
coi trọng phát triển các lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa thật sự trở thành
nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực để phát triển kinh tế. Tập trung
hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ngày càng rộng mở và hiệu
quả, hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế, bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng thành quả của tăng
trưởng.
2.
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao gắn kết
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
Chúng ta đang sống
trong một thời đại với ba đặc điểm kinh tế lớn chi phối sự phát triển của mỗi
quốc gia. Đó là: (i) Khoa học công nghệ phát triển rất nhanh, rất mạnh, hơn bất
kỳ một thời đại nào trước đó. Chính sự phát triển này tạo ra làn sóng công
nghiệp hóa lần thứ ba và hình thành nền kinh tế tri thức; (ii) Toàn cầu hóa
ngày càng sâu rộng, các liên kết kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều, thúc đẩy sự
phân công lao động ngày càng sâu sắc và hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu;
cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng quyết liệt và mỗi quốc gia phải giành cho
được ưu thế trong cuộc cạnh tranh đó; (iii) Tình trạng khan hiếm các loại
nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được,
đòi hỏi con người phải tìm kiếm các dạng nguyên liệu, năng lượng mới, bảo đảm
phát triển bền vững.
Những đặc điểm nêu
trên làm nổi bật vai trò ngày càng tăng của nguồn lực con người - lợi thế cạnh
tranh động trong quá trình phát triển và là nhân tố làm chuyển dịch lợi thế so
sánh giữa các quốc gia. Tình hình đó vừa đặt ra yêu cầu vừa tạo điều kiện cho
việc thay đổi mô hình phát triển, từ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác
các tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ nhưng chất lượng thấp sang sự
phát triển dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp bao gồm khả năng áp dụng các
thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng
quản lý hiện đại. Chìa khóa của sự chuyển đổi, nhân tố trung tâm của quá trình
này là nguồn nhân lực chất lượng cao. Chiến lược 2011 - 2020 xác định: Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định để cơ cấu lại nền kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo
đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Xét đến cùng, đây là khâu quan
trọng nhất trong ba khâu đột phá, có vai trò chi phối việc thực hiện các đột
phá khác, vì chính con người tạo ra và thực thi thể chế, xây dựng bộ máy, quy
hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng. Thực hiện tốt đột phá này sẽ làm tăng sức
mạnh mềm của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến
việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
kinh tế ngày càng sâu rộng - một quan điểm quan trọng mà Đại hội XI đã xác
định.
|
Kinh nghiệm của
các nước trên thế giới cho thấy quốc gia nào xây dựng và phát huy tốt nguồn lực
con người thì hoàn toàn có thể thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá,
hiện đại hoá rút ngắn. Những năm qua, chúng ta đã thực hiện nhiều giải pháp
nhằm phát triển nguồn nhân lực và đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên,
phát triển nguồn nhân lực vẫn còn nhiều bất cập, tỷ lệ lao động chưa qua đào
tạo còn lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề không hợp lý. Chúng ta
đang thiếu cả cán bộ quản lý nhà nước, quản trị doanh nghiệp; thiếu đội ngũ
chuyên gia trong các ngành kinh tế kỹ thuật và công nhân có tay nghề cao. Đây
là những trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Chiến lược nhấn
mạnh, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi,
đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa
học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng
của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện
liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo
và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các
chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực
chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo
nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Phát triển nguồn
nhân lực vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài theo tiến trình phát
triển của tri thức nhân loại. Trong 5 năm tới, phải tập trung chỉ đạo xây dựng
và triển khai chương trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý là khâu then chốt. Đặc biệt coi trọng đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao, phục vụ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Lấy nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo làm trục xoay chính, kết hợp với mở
rộng quy mô hợp lý. Quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính; thực hiện kiểm
định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường
giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Điểm nhấn mới
trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa
học công nghệ. Điều này thể hiện tính hướng đích của sự phát triển khoa học,
công nghệ, bảo đảm chuyển tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những
thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ - động lực then chốt của quá
trình phát triển nhanh và bền vững.
Trong nhiệm kỳ
2011 - 2016, Chính phủ sẽ đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ
chế hoạt động khoa học công nghệ; hướng trọng tâm hoạt động khoa học công nghệ
vào phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, góp
phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh
tế. Ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ưu
tiên sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với
môi trường, phát triển kinh tế xanh.
3. Xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung
vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
Kết cấu hạ tầng là
đường dẫn của sự phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng
sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển
đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng
tính hiệu quả nhờ quy mô. Trong những năm qua, chúng ta đã huy động nhiều
nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh
tế xã hội, xóa đói giảm nghèo trên các vùng miền của đất nước. Tuy nhiên, hệ
thống cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, lạc hậu, việc quy hoạch xây dựng lại
không đồng bộ, đầu tư dàn trải, khả năng kết nối các loại hình vận tải, kết nối
giữa các vùng trong nước và với các tuyến vận tải quốc tế còn hạn chế. Quy mô
kinh tế ngày càng tăng, quá trình đô thị hoá ngày càng mạnh mẽ càng bộc lộ
những bất cập trong kết cấu hạ tầng nước ta, nhất là hệ thống giao thông và hạ
tầng đô thị, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh và là một trong những điểm
nghẽn tăng trưởng. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020 xác định: Xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn là một
khâu đột phá.
|
Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai dự án.
Cần xây dựng quy
hoạch theo sự phân bố lực lượng sản xuất và bố trí dân cư gắn với quá trình đô
thị hoá trên tầm nhìn cả nước. Nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng ở các địa
phương là rất lớn. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, quyết định của chúng ta
không thể dựa vào lòng mong muốn mà phải lựa chọn cái tốt nhất có thể nhằm giải
tỏa nhanh các điểm nghẽn vận tải, đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong
thời gian ngắn nhất. Trên tinh thần đó, việc phát triển kết cấu hạ tầng giai
đoạn 2011 - 2015 sẽ thực hiện theo định hướng sau:
Thứ nhất, tập
trung đầu tư tuyến đường bộ Bắc - Nam. Ưu tiên phát triển hệ thống giao thông ở
những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa bàn thuộc các cực tăng trưởng,
kết nối với các vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh,
thúc đẩy tăng trưởng của cả nước. Hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ
tổng hợp của 3 cảng biển lớn ở 3 khu vực: Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh -
Vũng Tàu và Miền Trung; hình thành các trung tâm kinh tế biển lớn. Gắn việc
phát triển kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp nông thôn với chương trình xây
dựng nông thôn mới; quan tâm giải quyết những yêu cầu bức xúc về sản xuất, lưu
thông hàng hóa, đi lại, phòng chống lũ quét trên địa bàn miền núi và vùng đồng
bào dân tộc.
Thứ hai, tập trung
nâng cấp, phát triển đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống hạ tầng các đô thị lớn
gắn với bố trí, cơ cấu lại sản xuất và phân bố dân cư. Phát triển nhanh hệ
thống giao thông đô thị, nhất là giao thông công cộng. Tập trung giải quyết nạn
ùn tắc và úng ngập ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ ba, phát triển
nhanh hệ thống nguồn và truyền tải điện đi đôi với sử dụng công nghệ tiết kiệm
năng lượng, bảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển của đất nước và đời
sống nhân dân.
Thứ tư, phát triển
đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thuỷ lợi, chú trọng xây dựng và củng
cố hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, các công trình ngăn mặn và xả lũ.
Xây dựng các công trình phòng tránh thiên tai, các khu neo đậu tàu thuyền để
giảm nhẹ thiệt hại cho nhân dân. Hiện đại hoá ngành thông tin - truyền thông và
hạ tầng công nghệ thông tin, đáp ứng yêu cầu phát triển và góp phần nâng cao
năng suất lao động.
Chính phủ sẽ tập
trung hơn nữa hoàn thiện cơ chế, chính sách đầu tư trong đó tập trung hoàn
thiện cơ chế huy động nguồn lực, các quy định về thủ tục đầu tư và mua sắm
công. Phải huy động ngày càng nhiều đầu tư của xã hội cho phát triển kết cấu hạ
tầng, đẩy mạnh xã hội hóa việc đầu tư, thực hiện đa dạng hoá hình thức đầu tư,
khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước
ngoài tham gia phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ việc
thực hiện các phương thức đầu tư hiệu quả như xây dựng - kinh doanh - chuyển
giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT), nhất là phương thức hợp tác công - tư
(PPP), đồng thời tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế xây dựng các
cơ chế, chính sách mới phù hợp, đồng bộ để phát triển hạ tầng.
Đổi mới quy trình
và thủ tục đầu tư nhằm vừa đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án vừa tăng cường
chất lượng thiết kế thi công, tăng cường công tác giám sát, bảo đảm chất lượng
công trình và hiệu quả đầu tư đi đôi với việc nâng cao năng lực của các đơn vị
trong nước.
*
* *
* *
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân, thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
theo đúng vai trò nhân dân là chủ nhân của quá trình phát triển, nhất định
chúng ta sẽ thực hiện tốt ba đột phá chiến lược, tạo tiền đề có tính quyết định
thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
III.
Liên hệ thực tiễn: TPHCM
Kinh tế liên tục tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các ngành có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học - công nghệ cao chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, các nguồn lực xã hội được phát huy; quy mô kinh tế tiếp tục được mở rộng; vị trí, vai trò của Thành phố đối với vùng và cả nước ngày càng được khẳng định, đóng góp tích cực vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch được nâng lên; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các khu đô thị mới, chỉnh trang các khu đô thị theo hướng văn minh, hiện đại; di dời hệ thống cảng biển đạt kết quả tích cực; công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô nhiễm môi trường có tiến bộ.
Văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có bước tiến tích cực; hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ đã góp phần thiết thực hơn vào quá trình phát triển; chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng nâng cao; chính sách xã hội được quan tâm thực hiện có hiệu quả, hộ nghèo giảm rõ rệt.
Hệ thống chính trị được củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ có tiến bộ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền chuyển biến tích cực và hiệu quả tốt hơn. Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới, hướng về cơ sở.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường; cải cách tư pháp có chuyển biến tích cực; tình hình tham nhũng, lãng phí từng bước được ngăn chặn. Quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển Thành phố.
Sau hơn 25 năm đổi mới và gần 10 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thành phố Hồ Chí Minh đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Thành phố đã vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng các danh hiệu cao quý: "Thành phố Anh hùng", "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân", "Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới", được hai lần tặng thưởng Huân chương Sao vàng.
2- Tuy nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn khó khăn, hạn chế, yếu kém:
- Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố. Cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh chưa cao; tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng cao còn thấp; quy mô, tỉ trọng của khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ; kết quả hợp tác phát triển với các địa phương còn hạn chế.
- Kết cấu hạ tầng vốn đã yếu kém, ngày càng quá tải, bất cập, cản trở việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Quy hoạch và quản lý đô thị chưa theo kịp tốc độ phát triển. Tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, ô nhiễm môi trường vẫn nghiêm trọng, có mặt ngày càng gay gắt hơn.
- Phát triển văn hoá chưa tương xứng với vai trò, vị trí của Thành phố là một trung tâm văn hoá lớn của vùng và cả nước. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Khoa học - công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc chậm được khắc phục; phát triển giáo dục - đào tạo, y tế còn có mặt chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là tình trạng quá tải ở các bệnh viện chuyên khoa ngày càng nghiêm trọng; thể thao thành tích cao bị suy giảm.
- An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn.
- Kết quả công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế, yếu kém. Hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa cao, tính chiến đấu, sức thuyết phục còn thấp. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn yếu; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, suy thoái tư tưởng chính trị, giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, mất niềm tin, suy thoái đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng; công tác quản lý, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế, yếu kém; thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; cải cách tư pháp còn chậm; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đối với hệ thống chính trị còn chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ.
3- Những khó khăn, hạn chế, yếu kém nêu trên là do :
- Năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền Thành phố trong việc tổ chức thực hiện Nghị quyết còn hạn chế, thiếu quyết liệt. Thành phố chưa quan tâm đúng mức việc tổng kết thực tiễn, chưa kiên trì, kiến nghị với Trung ương để có chủ trương, biện pháp mang tính đột phá.
- Việc thể chế hoá Nghị quyết số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị còn chậm, chưa có cơ chế, chính sách phát huy tiềm năng, tạo sức mạnh liên kết của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị loại đặc biệt. Một số bộ, ngành Trung ương còn thiếu chủ động phối hợp với Thành phố trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 20 và Kết luận 15 của Bộ Chính trị để giải quyết một số vấn đề cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền của Trung ương.
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020
1- Từ nay đến năm 2020, trên cơ sở vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ, Thành phố cần tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, nỗ lực phấn đấu, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, phát triển Thành phố nhanh và bền vững với chất lượng và tốc độ cao hơn mức bình quân chung của cả nước, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đóng góp ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
2- Để thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát nêu trên, cần tập trung lãnh đạo thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây :
2.1- Khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân thời kỳ 2011 - 2020 cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước; GDP bình quân đầu người cuối năm 2020 đạt khoảng 8.500 USD.
- Thúc đẩy phát triển các nhóm ngành dịch vụ đạt chất lượng, hiệu quả; trong đó, tập trung nâng cao tỉ trọng các ngành dịch vụ: thương mại quốc tế; tài chính, ngân hàng; dịch vụ cảng, kho bãi, hậu cần hàng hải và xuất, nhập khẩu, vận tải đa phương thức; du lịch. Phát triển và quản lý tốt các loại thị trường hàng hoá; thị trường tài chính; thị trường bất động sản; thị trường khoa học - công nghệ; thị trường lao động…
- Tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao (cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hoá dược - cao su; chế biến tinh lương thực, thực phẩm). Lựa chọn một số công đoạn, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong các ngành khác để đầu tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phấn đấu cơ bản hoàn thành vào cuối năm 2015; phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững.
- Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, chú trọng thu hút các dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ sạch và bảo vệ môi trường. Các thành phần kinh tế cùng phát triển, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp; phát triển kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã; tiếp tục phát huy tốt sự chủ động liên kết, hợp tác phát triển ngày càng có hiệu quả với các tỉnh, thành phố.
2.2- Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, thiết kế đô thị, quản lý quy hoạch kiến trúc, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quản lý đô thị gắn với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Đầu tư nâng cấp cải tạo, chỉnh trang đô thị cũ. Bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, đặc biệt chú ý khai thác nguồn vốn từ nhà xưởng, quyền sử dụng đất để góp phần tạo vốn xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và các địa phương liên quan tập trung xây dựng hệ thống giao thông công cộng có sức chở lớn, đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường trên cao, đường cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông; các hệ thống cấp nước, thoát nước, chống ngập, xử lý chất thải, hạ tầng năng lượng, hạ tầng viễn thông… Đầu tư xây dựng hệ thống đê ven biển, công trình thuỷ lợi ven sông Sài Gòn, hệ thống cống ngăn triều, kiểm soát lũ, giải quyết cơ bản tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, kết nối với kết cấu hạ tầng các tỉnh lân cận và vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Tăng cường công tác quản lý và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực tham gia bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó, hạn chế tác hại do biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
2.3- Nâng cao hiệu quả thực hiện chủ trương xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục - thể thao.
Tiếp tục đầu tư đổi mới, nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển mạnh khoa học - công nghệ gắn với phát triển kinh tế tri thức, làm nền tảng thúc đẩy Thành phố phát triển nhanh và bền vững.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện mạng lưới y tế từ Thành phố đến cơ sở. Tập trung xây dựng, phát triển khu y tế kỹ thuật cao, các trung tâm y tế chuyên sâu và một số bệnh viện tại các cửa ngõ Thành phố. Nâng cao chất lượng hoạt động bệnh viện quận, huyện… Coi trọng phát triển y tế dự phòng, nâng cao tinh thần phục vụ của cán bộ, nhân viên y tế. Giải quyết căn bản tình trạng quá tải các bệnh viện.
Phát triển mạnh phong trào thể dục - thể thao quần chúng, nâng cao thể chất của nhân dân; phát triển thể thao thành tích cao, nhất là các môn Thành phố có truyền thống, có ưu thế.
Phát triển, nâng cao chất lượng và quản lý tốt các hoạt động văn hoá theo hướng văn minh, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của Thành phố Hồ Chí Minh. Lãnh đạo, quản lý hoạt động báo chí, xuất bản, văn học - nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; từng bước giảm dần sự cách biệt về mức hưởng thụ văn hoá giữa đô thị và nông thôn; xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh đô thị.
Thực hiện tốt các chính sách xã hội và bảo đảm an sinh xã hội, rút ngắn khoảng cách nghèo giàu trong các tầng lớp nhân dân. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn tệ nạn xã hội, tội phạm; giảm tai nạn giao thông; bảo đảm trật tự, an toàn cho nhân dân.
2.4- Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong mọi tình huống; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc; xây dựng nền tảng chính trị vững chắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh, quốc phòng; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh. Xây dựng lực lượng quân đội, công an trong sạch, vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cải cách tư pháp và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Triển khai có hiệu quả việc đấu tranh với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xử lý có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để bất ngờ xảy ra.
2.5- Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá. Thực hiện tốt các nội dung hợp tác đã ký kết với địa phương các nước; chủ động ngăn ngừa tác động tiêu cực phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường, đổi mới hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh Việt Nam và Thành phố để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và kiều bào tham gia xây dựng đất nước.
2.6- Lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đạt được sự chuyển biến rõ rệt, trong đó tập trung thực hiện tốt các nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cấp trên... Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Thành phố, xây dựng Đảng bộ Thành phố trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền gắn với xây dựng mô hình chính quyền đô thị, nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, năng lực tốt và gắn bó mật thiết với nhân dân; chú trọng cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất thân từ công nhân, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
2.7- Phát huy dân chủ và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; chăm lo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh; thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị và quy chế dân chủ cơ sở; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo. Giải quyết kịp thời các khiếu kiện của nhân dân, không để xảy ra những "điểm nóng".
Quận 1:
Từ ngày hình thành cho đến nay, Quận 1 luôn luôn giữ được vị trí trung tâm
của thành phố. Qua hơn 300 năm xây dựng, tôn tạo và phát triển, ngày nay Quận 1
đã trở thành trung tâm hành chính, văn hóa, dịch vụ, thương mại, xuất nhập
khẩu, đầu tư và sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của thành phố Hồ
Chí Minh. Doanh thu dịch vụ - thương mại của quận trong năm 2000 đạt trên 325,7
tỷ đồng, giá trị xuất khẩu có năm đạt trên 33 triệu USD.Cơ cấu dân cư của Quận 1 chuyển dịch theo hướng phù hợp với đặc điểm của một Quận trung tâm thành phố. Bên cạnh trên 20.000 cán bộ công chức (tại chức và hưu trí) của quận, thành phố và các cơ quan Trung ương trú đóng trên địa bàn, phần lớn dân cư là công nhân - lao động tập trung trong hơn 1.450 doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, bộ phận dân cư còn lại là tiểu thương trong 11.560 hộ kinh doanh cá thể, học sinh - sinh viên ... Gần 10% dân số có trình độ đại học và sau đại học. Toàn dân đã có trình độ trung học cơ sở và có 3 phường thực hiện xong phổ cập phổ thông trung học. Tính theo tuổi đời, Quận 1 là một địa phương khá trẻ với hơn 85% dân số có độ tuổi từ 50 trở xuống, trong đó có 143.412 người trong độ tuổi lao động, chiếm 62,3% dân số.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)